Tôn ảnh: Bàn thờ trong truyền thống Kim Cương Thừa
“Hợp pháp” đây có nghĩa là không có hai việc: sự lường gạt liên hệ đến vật phẩm dâng cúng, và những động lực xảo trá để có được phẩm vật ấy.
“Sự lường gạt liên hệ đến phẩm vật dâng cúng” có nghĩa là bạn đã vi phạm một việc quấy trong khi kiếm phẩm vật dể dâng cúng; như một người xuất gia thụ giới có được phẩm vật nhờ năm thứ tà mạng, hay một cư sĩ được phẩm vật nhờ sát sinh, đong thiếu, hoặc bằng một phương tiện xấu xa nào khác.
Tốt hơn là đừng dâng cúng bằng những phẩm vật như thế. Phạn ngữ gọi đồ cúng là “puja” có nghĩa “làm hài lòng.” Vậy phẩm vật bạn cúng phải do Đấng Chiến thắng và các pháp tử của ngài vui lòng mối được. Làm sao các ngài vui lòng nếu bạn đem dâng cúng những loại phẩm vật như thế? Tuy nhiên, nếu bạn lỡ được những phẩm vật cúng thuộc loại ấy, thì cũng nên đem cúng Phật để tịnh hóa tội lỗi do sự tìm cầu chúng (một cách trái phép.)
Năm tà mạng là: nịnh hót, ám chỉ, cho để nhận (thả tép câu cá), làm áp lực trên người khác, và giả trang thiền tướng.
“Nịnh hót” là như sau. Bạn khen ngợi thí chủ với hi vọng họ sẽ cho bạn một thứ gì. Nếu họ cho bạn thứ ấy thật, thì hành vi nịnh hót ấy trở thành tà mạng. Nhưng nếu bạn khen chân thành, không một động lực như trên, thì không phải là tà mạng, dù họ có cho bạn phẩm vật.
“Ám chỉ” là như nói với thí chủ: “Bây giờ tôi có trà và bơ, nhưng không có nhiều ngũ cốc,” với hy vọng được cúng. Hoặc nói: “Bột lúa mạch mà thí chủ cho tôi năm ngoái đã giúp tôi rất nhiều.” Nói cách khác, bạn ám chỉ rằng bạn đang càn ngũ côc hay bột lúa mạch. Nhưng nếu bạn nói những lời trên một cách vô tư không có hậu ý, thì không phải là “ám chỉ.”
“Cho để nhận” là cho một vật vặt vãnh để nhận được thứ tốt hơn. Ví dụ bạn đem cho một khăn quàng lễ hay một bình trà, để họ đền đáp lại bạn hoặc thay bạn cúng dường tu viện. Ngày nay ta gọi là “mắc mồi vào lưỡi câu.” Người ngày nay rất dễ vi phạm vào những tà mạng này. Nhưng nếu bạn làm quà cho thí chủ một cách chân thật không có động lực như trên, “thì không gọi là tà mạng, dù họ có cho bạn lại một cái gì.
“Làm áp lực” là quấy rầy người nào để buộc họ cho bạn một cái gì họ không muốn cho, hoặc khiến họ cho bạn một vật mà họ sắp đem cho người khác. Hoặc nói những lời như: “Thí chủ X đã cho tôi trà và bơ thực ngon.” Nhưng nếu muốn nói chân thành không có động cơ muốn nhận tặng phẩm sau đó, thì không phải là tà mạng kiểu “làm áp lực.”
“Giả trang thiền tướng” thì trong khi ở phòng riêng thì buông lung phóng túng, mà trước mắt cư sĩ thì làm như một tỷ kheo rất tuân giữ giới luật, với hy vọng họ cúng dường bạn vì đức hạnh ấy. Nhưng nếu bạn không có động lực như trên, mà cư xử đàng hoàng ngược lại với lúc ở một mình chỉ vì nghĩ “không nên làm cho cư sĩ này mất tín tâm” thì không phải là “giả trang thiền tướng.”
Một điểm nữa là: Nếu những người đã xuất gia thụ giới như chúng ta mà vi phạm những điều cấm liên hệ đến ba lời nguyện ta đã làm, và được vật nhờ buôn bán, thì chúng ta sẽ bị quả báo nặng nề khi đem vật ấy mà dâng cúng.
“Động lực xảo trá” có nghĩa là cúng vì ham danh, hoặc cúng để làm cho người thán phục. Nói cách khác là những hành vi bị ảnh hưởng của những động cơ xấu. Drogoen Rinpoche nói: “Ngay cả những phẩm vật bạn dâng cúng Tam Bảo cũng chỉ là để cho người khác trông thấy.” Nói cách khác, mọi sự dâng cúng mà chúng ta làm để mưu cầu danh dự, để tiến thân, v.v…Chúng ta thụt lùi về tám sự bận tâm của thế tục (xem Ngày Thứ Mười, trang…). Chẳng thà nhận rằng mình cúng với động lực giản dị là cầu sống lâu, khỏi bệnh, có người làm như thể họ cúng đường Tăng bảo vì ngưỡng mộ chứ không hi vọng kiếm công đức gì; song kỳ thực họ cúng vì cầu danh.
Khi nhà bạn sắp có khách viếng thăm, bạn quét nhà cẩn thận hơn và để nhiều đồ cúng trên bàn thờ hơn thường lệ. Bạn không thể thắp một ngọn đèn, mà còn xông trầm thơm ngát cả nhà. Nhưng thật khó biết được là bạn chỉ muốn gây ấn tượng nơi người khách, hay đồ cúng ấy sẽ có lợi hại gì cho bạn. Người ta kể chuyện một hôm Geshe Baen Gung-gyael nghe có thí chủ sắp viếng thăm, ông sắp hết sức để sắp đồ cúng Tam Bảo cho thật tốt đẹp. Xong ông ngồi lại để quán tưởng và xét lại những động cơ, thì thấy mình làm nòng cốt để gây ấn tượng nơi thí chủ. Ông bèn vùng dậy khỏi bồ đoàn, rắc tro lên khắp đồ cúng, mà nói: “Ồ tỷ kheo, đừng có ngu ngốc.” Ông bỏ mặc đồ cúng bị rắc đầy tro lên.
Padampa Sangyae ở Langkor nghe chuyện ấy, đã ca ngợi rằng trong tất cả những phẩm vật dâng cúng ở Tây Tạng, chỉ có phẩm vật của Baen Gung-gyael là cao quý nhất. Người ta hỏi tại sao như vậy, thì ông đáp rằng vị tiến sĩ kia đã tung tro vào mặt tám điều bận tâm của thế tục. Padampa rất sung sướng nhưng dĩ nhiên ông không khen ngợi đồ cúng mà Geshe Baen đã bày lúc đầu, trái lại ông khen ngợi các hành vi rắc tro lên các đồ cúng ấy.
Bởi thế hai điều quan trọng nhất là phải làm sự dâng cúng kèm theo tâm bồ đề. Để đừng cho tám mối bận tâm thế tục làm động lực thúc đẩy, đừng cúng để cầu được tái sanh tốt đẹp, hay được giải thoát, v.vv…
Trên đây còn nói “bày biện đẹp mắt.” Nhiều người có thể bảo, “tôi không muốn gây ấn tượng,” và do vậy cứ bày đồ cúng bằng cách nào cũng xong. Nhưng bạn không nên làm thế, phải sắp đồ cúng trên bàn thờ một cách tỉ mỉ công phu, và đẹp mắt là một nhân tố để có những tướng hảo và những tướng phụ tốt đẹp khi bạn thành Phật.
Bạn phải đích thân trưng bày đồ cúng, nếu để cho đệ tử hay tôi tớ làm thì bạn không được công đức nào. Khi Atisha ốm nặng, ngài vẫn dâng nước cúng mặc dù hai chân đã run. Khi người ta bảo ngài, “Ồ ngài Atisha, thực quá cực nhọc cho ngài. Để chúng tôi làm thay.” Ngài trả lời: “Vậy thì khi tôi ăn, có lẽ bạn cũng nên nói rằng Atisha, thật quá cực nhọc cho ngài, rồi ăn giùm phần ăn của tôi. Những vị vua Pháp ở Ấn Độ thời xưa khi thực hành hạnh bố thí vĩ đại, họ không cử một vị bộ trưởng hay quan chức nào ra phát quà, mà đích thân vua ngồi giữa những chồng tiền trong một cái rạp, tự tay vua phân pháp. Bởi thế, điều thực quan trọng là ta phải tự tay dâng đồ cúng.
Bạn cũng nên dâng cúng miếng ăn đầu tiên của mình – tốt nhất, chứ không nên cúng những rau ôi, v.v…
Thường chúng ta ưa dành thực phẩm ngon nhất cho mình, để riêng những thứ xấu để cúng. Như thế chẳng khác nào quét hết công đức ra cửa. Tuy nhiên nói về cúng đèn bơ, thì cốt là dâng ánh sáng, chứ không phải là dâng bơ (hay dầu) nên có người nói có thể cúng bơ đã hơi cũ.
Bạn không cần phải lo ngại về những chuyện ấy nếu bạn nghèo. Sau khi đã từ bỏ đời sống tại gia, bạn có thể nghĩ rằng mình chẳng có gì để cúng. Nhưng nếu bạn có đức tin mạnh, bạn cũng có thể dâng cúng, dù bạn không còn thứ gì. Đức Atìsha vĩ đại có nói:
“Nước ở Tây Tạng có tám công đức, bởi thế ở đây ta chỉ cần cúng nước là đủ. Nếu có những thứ hoa dại ở Ấn, có lẽ người ta sẽ mua bằng vàng ròng.”
Vậy, nếu không có gì để cúng, bạn cũng có thể tích tập công đức bằng cách dâng cúng những chén nước với những động lực trong sạch.
Bây giờ tôi sẽ nói đến tám công đức của thứ nước ở Tây Tạng chúng ta. Tôi sẽ theo lời giải của tôn sư về những lợi lạc mà ta có được từ mỗi thức công đức ấy. Trong lời sớ giải của Chim Jampaelyang về tác phẩm của Thế Thân (Vasubandhu) có nói tám công đức ấy là:
Trong, không mùi, trơn cổ
Tám lợi ích tương ứng về phương diện nghiệp là như sau. Giới của bạn được thanh tịnh do nước mát của bạn cúng. Nước ấy có vị ngon nên bạn sẽ có được thức ăn ngon. Tính sáng của nước cũng có nghĩa là bạn sẽ có thân tâm sảng khoái. Tính mềm mãi của nước đem lại quả báo là một dòng tâm thức hiền hòa. Sự trong trẻo của nước cúng đem lại cho bạn một tâm thức sáng suốt. Sự không mùi của nước có hậu quả là nghiệp chướng của bạn được tịnh trừ. Nước trong không gây bệnh dạ dày, nên thân thể của bạn sẽ không có bệnh. Nước làm trơn cổ họng, nghĩa là bạn sẽ có được ái ngữ.
Khi Drubkang Geleg Gyatso mới dời vào một nhà ẩn cư ở tu viện Sera, ông có rất ít vật tùy thân và lương thực. Ông không có cả một bộ chén để cúng nước. Khi dâng cúng nước, ông phải rửa sạch bát ăn của mình để đựng nước cúng. Mỗi khi muốn uống trà, ông lại xin phép Tam Bảo để lại cái bát; và uống trà xong, ông lại rửa bát để dâng nước cúng.
Bạn có thể dâng cúng Tam Bảo bất cứ thứ gì, như hoa trái, nước trong mát, vân vân. Bậc tôn sư tôi dạy, ta cũng có thể hiến cúng bằng cách đọc thần chú biến thủy biến thực (xem Ngày Thứ Năm, trang….) và hồi hướng công đức v.v… Xem chi tiết trong phần nói về tiểu sử của Tridagpo Tsepel. Trong bất cứ trường hợp nào, đức tin của bạn cũng là yếu tố chính, chứ không phải phẩm vật mà bạn dâng cúng.
Nhiều người nghĩ rằng phải chăng chỉ cần cúng nước, bông hoa, v.v… và để dành những thứ thực sự quý giá cho mình sử dụng. Tư tưởng ấy có thể làm cho bạn tái sanh làm ngạ quỷ. Thật ra bạn phải cúng cái gì tốt nhất mà bạn sở hữu.
Một số tỷ kheo đã từ bỏ các công việc thế tục có thể nghĩ rằng, “mình không nên cúng dường những thứ thuộc về vật chất. Vì chúng ta được dạy bảo rằng người xuất gia chỉ nên tập trung vào việc cúng dường những kết quả của sự tu thiền. Chỉ cần cúng dường cách ấy là đủ.” Nhưng nếu ý nghĩ ấy làm cho bạn không bao giờ cúng một thứ gì thuộc về vật chất, thì trong nhiều đời tái sanh, bạn sẽ chẳng có một chút gì để làm phẩm vật cúng dường.
Nếu những gì bạn có được để cúng chỉ là những chiếc bánh nhỏ xíu và nữa que hương, bạn cũng không nên xem thường giá trị của những vật ấy, vì bạn đã tăng công đức nếu đem dâng cúng. Về sau nhờ công đức ấy bạn có nhiều của cải vật chất để cúng dường. Điều này được chứng minh bằng cuộc đời ngài Geshe Puchunga. Ngài nói:
“Lúc đầu tôi chỉ đốt gentian thay cho trầm hương. Tôi đốt nhiều quá đến chảy nước mắt. Về sau tôi có hương thơm làm bằng bốn thứ vật liệu. Bây giờ thì tôi cúng hương của các thứ hoa myrobalan, duraka, vân vân.”
Quả thế ngài đã từng cúng một số hương trầm giá trị bằng hai mươi hai đồng vàng. Tuy thế nhiều người lại bảo, “Geshe Puchungwa là người đã chứng đạo, chuyên thiền định. Chúng ta đừng hi vọng giác ngộ nhờ những việc làm bề ngoài ấy.” Nói như vậy chứng tỏ họ rất hiểu biết Phật pháp. Ta nên nghĩ tới việc các vị bồ tát đã lên địa vị trong mười địa vẫn cúng dường chư Phật trong nhiều kiếp, bằng trăm ngàn hóa thân, mỗi hóa thân cúng trăm ngàn cánh tay. Bởi thế chúng ta cũng nên cúng dường càng nhiều càng tốt.
Bây giờ hãy nói qua về cách cúng, ví dụ cúng nước. Bạn phải lau chùi những chén đựng nước và sắp thành một đường thẳng. Nhưng không nên để chén cách nhau quá xa, sẽ có hậu quả là bạn ở xa bậc thầy. Nếu để sát nhau, bạn có thể trở nên đần độn. Và nếu bạn đặt chén xuống một cách ồn ào, bạn có thể mắc bệnh điên, v.v… Nếu bạn đặt chén xuống trong khi chúng còn trống rỗng, thì công đức của bạn sẽ giảm. Thay vì thế, bạn sẽ cầm chồng chén trên tay và rót ít nước vào chén trên cùng, trong khi miệng đọc chú làm phép bằng ba âm om, ah, hum. Rót nước từ cái chén này vào cái chén kế tiếp, chỉ chừa lại một ít. Đặt chén đầu tiên lên bàn thờ rồi tiếp tục làm như trước. Bằng cách ấy, bạn không đặt chén trống nào lên bàn thờ. Khi rót đầy nước vào những chén ấy, thì bạn không nền cầm cái bình dù chỉ một tay, vì như vậy chứng tỏ sự bất kính. Bạn phải làm như mình đang dâng trà cho một bậc đại vương.
Một hạt lúa mạch có hình dáng hai đầu mỏng, giữa phình ra: bạn phải đổ đầy nước kiểu ấy, nghĩa là lúc đầu rót một ít, rồi rót nhiều, và cuối cùng giảm từ từ. Nếu bạn rót tràn chén, thì giới hạnh của bạn sẽ lỏng lẻo, nếu rót lưng chén thì mức sống của bạn sẽ nghèo nàn. Mức nước phải ở dưới mức tràn đầy miệng chén, như hình một hột lúa mạch.
Đèn thắp bằng bơ (hay dầu) là cúng dường ánh sáng, nên phải sáng. Người ta bảo đèn càng cháy lâu càng tốt, đó làdấu hiệu trường thọ. Bạn hãy tự nghĩ ra cách dâng cúng các phẩm vật khác như hoa v.v… cho thích hợp.
Kinh nói rằng mỗi sự dâng cúng của bạn có mười lợi ích.
~Trích “Giải Thoát Trong Lòng Tay” – Pabongka Rinpoche~
lượt xem 304