
Tôn ảnh: Thánh Đức Pháp Vương Kadam Dongchen Rinpoche đời thứ 17
NĂM MƯƠI CÂU TỤNG
TÔN KÍNH ĐẠO SƯ
1. Đê đầu đúng cách nơi gót sen Đạo sư, người sẽ làm nhân dẫn đến với thành tựu địa vị Phật Kim Cang Trì cát tường, nay tôi xin tóm tắt giải thích ngắn gọn về tâm kính đạo sư mà nhiều mật kinh không tì đã vết đã giảng. Xin hãy nghiêm chỉnh lắng nghe.
2. Chư Phật đà của khắp ba thời quá khứ hiện tại và vị lai trú ở mười phương khắp mọi quốc độ đều khéo tán dương đạo sư mật pháp đã truyền cho chư vị pháp quán đảnh tối thượng (huống gì chúng ta).
3. Ba lần mỗi ngày, bằng niềm tin cao tột, đệ tử phải tỏ lòng tôn kính Đạo Sư, là người đã khai thị (mật pháp), bằng cách chắp hai tay, cúng mạn đà la và hoa, đê đầu đảnh lễ dưới chân Đạo sư.
4. Cho người thọ giới xuất gia, nếu (Đạo sư) là tại gia, hay nhỏ hơn, hãy đối trước các món vật khác như kinh sách của Đạo sư để đảnh lễ để tránh lời đàm tiếu dị nghị, nhưng trong tâm (hãy đảnh lễ Đạo sư).
5. Riêng nói về cách tôn kính phụng sự (Đạo sư), như là phải nghe lời Đạo sư, phải đứng lên (khi Đạo sư đến), thỉnh Đạo sư an tọa, phải làm như vậy dù là người xuất gia (mà Đạo sư là tại gia hay nhỏ hơn). Tuy vậy, (trước mặt mọi người) hãy tránh quì đảnh lễ hay làm những việc không hợp lẽ thường (như rửa chân cho Đạo sư).
6. Để giữ gìn cho thệ nguyện của Đạo sư và của đệ tử không bị hư gãy, hai bên cần phải xét lẫn nhau trước, xem (có đủ khả năng gánh) mối quan hệ Sư phụ – đệ tử.
7. Đệ tử có trí sẽ không nhận làm Đạo sư người thiếu tâm từ bi, hay người nhiều sân hận, ác ý, kiêu mạn, tham lam, thiếu tự chế, hay là thích khoe khoang về hiểu biết của mình.
8. An định (trong hành động), uyên thâm (trong lời nói), trí tuệ, kham nhẫn, và trung thực. Việc sai không che dấu, việc tốt không vờ có. Phải là người nắm vững ý nghĩa (mật thừa) và nghi lễ (trị bệnh và đuổi tà chướng). Và cũng phải là người có tâm từ bi và thông tuệ toàn bộ kinh điển.
9. Phải đầy đủ kinh nghiệm của cả mười lãnh vực, khéo biết vẽ mạn đà la, giảng mật pháp, tín tâm tột bực, biết làm chủ giác quan.
10. Đã là đệ tử của một đấng hộ trì rồi, nếu sinh tâm khinh thường sẽ gánh khổ não triền miên như là phỉ báng hết
thảy chư Phật đà.
11. Nếu điên tới mức sinh tâm xem thường Đạo sư sẽ vướng bệnh truyền nhiễm và những loại bệnh do tà ma ác quỉ gây ra, rồi sẽ chết (cái chết kinh khủng), vì tà ám, bệnh dịch, hay trúng độc.
12. Sẽ bị hung quân giết, hay chết vì lửa, vì rắn cắn, nước, phù thủy, hay vì cướp, vì tà ma, vì man rợ, rồi đọa sinh vào địa ngục.
13. Đừng bao giờ làm phiền lòng Đạo sư. Nếu điên tới mức làm việc này, nhất định rồi sẽ bị nấu sôi trong địa ngục.
14. Địa ngục nào được dạy là kinh hoàng nhất, như ngục a tì – ngục vô gián, lời dạy rất rõ ràng, phỉ báng Đạo sư của mình sẽ phải ở nơi ấy (một thời gian rất dài).
15. Vì vậy, hãy dốc tâm nỗ lực đừng bao giờ xem nhẹ Đạo sư kim cang của mình, người không bao giờ để lộ ra đại trí tuệ đại thiện đức cho người khác thấy.
16. (Nếu vì vô tâm mà tỏ vẻ bất kính) với Đạo sư, hãy cung kính dâng phẩm cúng dường, xin Đạo sư tha thứ. Rồi trong tương lai tai ương tật dịch sẽ không rơi lên đầu.
17. Lời dạy nói rằng với vị Đạo sư mà mình đã kết mật thệ (quán tưởng làm một với bổn tôn), phải sẵn lòng hy sinh cả vợ, con, sinh mạng của mình, dù những điều này không (dễ) cho ra. Huống hồ là mớ tài vật phù du.
18. (Cúng dường như vậy) có khả năng mang đến thậm chí là quả vị Phật cho người (đệ tử) hết lòng ngay trong kiếp hiện tiền, bằng không cả hàng vô số vạn ức thời kỳ vô số cũng khó lòng đạt được.
19. Hãy luôn giữ mật thệ. Luôn cúng dường đấng giác ngộ. Luôn cúng dường Đạo sư của mình, vì người và khắp chư Phật hoàn toàn không khác.
20. Ai người mong cầu đạt quả vô tận (của Pháp Thân Phật) phải dâng hiến cho Đạo sư tất cả những gì mình ưa thích, từ những món vặt vãnh cho đến những món phẩm lượng hơn hết.
21. Cúng dường Đạo sư của mình không khác gì liên tục cúng dường hết thảy chư Phật đà. Nhờ cúng dường như vậy mà được công đức lớn. Nhờ công đức lớn mà đạt địa vị toàn năng tối thượng (của Phật).
22. Vì vậy, đệ tử khéo tâm từ bi, rộng lượng, giới hạnh, kham nhẫn, thì không bao giờ xem Đạo sư của mình khác với đức Phật Kim Cang Trì.
23. Đến cả cái bóng (của Đạo sư) cũng không dẫm lên vì sợ quả báo y như quả báo phá hủy bảo tháp, huống hồ là dẫm lên hay bước qua giày, ghế, (ngồi chỗ của Đạo sư, hay cưỡi) yên cương của Đạo sư.
24. (Đệ tử) hiểu việc phải biết vui vẻ hăng hái nghe theo lời Đạo sư. Nếu không biết cách hay không đủ khả năng (làm những gì Đạo sư bảo làm), hãy dùng lời (cung kính) giải thích vì sao không thể.
25. Mọi thành tựu mãnh liệt, tái sinh thiện đạo và mọi phúc lạc đều từ Đạo sư mà đến. Vì vậy hãy dốc tâm nỗ lực để đừng bao giờ làm trái lời dạy của Đạo sư.
26. (Giữ gìn) những gì thuộc về Đạo sư như giữ thân mạng của chính mình. Cả với người thân của Đạo sư cũng vậy. (Ưu ái quan tâm) cho tất cả những người quanh Đạo sư như thân nhân gần gũi nhất của mình. Tâm chuyên nhất với ý nghĩ này trong mọi lúc.
27. Không ngồi (chung) giường, (chung) ghế, không đi trước Đạo sư, (khi nghe pháp) không búi tóc che đầu (với nón, giày hay vũ khí). Không bao giờ chạm vào ghế (trước khi Đạo sư ngồi, hay khi Đạo sư ngồi dưới đất), không chống nạnh khoanh tay (trước mặt Đạo sư).
28. Không ngồi hay dựa khi Đạo sư đứng (cũng không nằm khi Đạo sư ngồi). Luôn sẵn sàng đứng lên khéo hầu Đạo sư.
29. Trước mặt Đạo sư, không làm những việc như khạt nhổ (ho hay là nhảy mũi mà không che mặt), không ngồi duỗi chân, không (vô cớ) đi tới đi lui và không cãi lý.
30. (Trước mặt Đạo sư) không xoa bóp chân tay, không hát, múa hay tấu nhạc (trừ phi là nhạc lễ). Không bao giờ nói chuyện tào lao, nói quá nhiều, (quá ồn ào) làm rộn tai Đạo sư.
31. (Khi Đạo sư bước vào) hãy đứng lên, đầu cúi nhẹ. (Trước mặt Đạo sư), hãy ngồi cho cung kính. Nếu trời tối, đi cạnh bờ sông hay trên những lối đường nguy hiểm, nếu được (Đạo sư) cho phép, đệ tử có thể đi trước Đạo sư.
32. Khi nhìn thấy Đạo sư, đệ tử có trí sẽ không (ngồi) vặn vẹo, (lơi là) dựa cột hay làm những việc đại loại. Không bẻ khớp ngón tay (hay chùi móng tay).
33. Khi rửa chân (cho Đạo sư), rửa mình, lau khô, xoa bóp, (hay cạo râu), trước đó phải lạy (ba lạy), làm xong cũng vậy. Rồi tùy ý tự lo (cho mình).
34. Khi cần gọi tên (Đạo Sư), hãy thêm vào danh hiệu tôn kính. Để khơi lòng tôn kính nơi người khác, có thể thêm
nhiều danh hiệu khác nữa.
35. Khi cần thỉnh ý Đạo sư, (trước tiên hãy cho Đạo sư biết vì sao mình đến), chắp tay nơi tim, lắng nghe lời dạy của Đạo sư, không (để tâm) chạy rong. Rồi (sau khi Đạo sư nói xong) hãy trả lời “con xin làm theo lời dạy.”
36. Sau khi làm xong (việc Đạo sư bảo), hãy cho Đạo sư biết bằng lời tôn kính, nhẹ nhàng. Khi cần ngáp hay cần ho, (hay tằn hắng, hay cười trước mặt Đạo sư), hãy dùng tay che miệng.
37. Nếu muốn thỉnh một pháp nào, hãy trước mặt Đạo sư, chắp hai tay, quì gối bên phải, chắp hai tay, thỉnh ba lần. (Rồi khi Đạo sư cho pháp), ngồi khiêm cung với lòng tôn kính, mặc áo thích hợp, (sạch sẽ, không đeo trang sức, vàng ngọc hay mỹ phẩm).
38. Khi phụng sự (Đạo sư), hay khi tỏ lòng tôn kính, đừng bao giờ làm với lòng kiêu mạn, ngược lại phải như cô dâu mới, nhút nhát, thẹn thùng, và rất ngoan.
39. Khi gần (Đạo sư), người khai thị đường giác ngộ cho ta, hãy dứt mọi thái độ kiêu ngạo, điệu đàng. Còn việc khoe khoang với người khác về việc mình đã làm (cho đạo sư), hãy tự xét (tâm) để dứt hết những việc như vậy.
40. Nếu (được mời) chủ trì pháp lễ chú nguyện, (quán đảnh) mạn đà la, cúng lửa, hay đăng đàn thuyết pháp, Đạo sư đang ở tại nơi ấy thì không được làm, trừ phi trước đó đã được Đạo sư cho phép.
41. Chủ trì pháp lễ như là “khai nhãn” được cúng dường bao nhiêu thì phải dâng hết cho Đạo sư. Sau khi Đạo sư lấy một ít để chứng giám cho, phần còn lại đệ tử có thể dùng.
42. Khi có mặt Đạo sư thì đệ tử đối với đệ tử của mình sẽ không hành xử như sư phụ, và cũng không để cho đệ tử tôn kính mình như sư phụ, sẽ ngăn không cho đệ tử nghênh đón và đảnh lễ mình.
43. Khi dâng phẩm cúng dường cho Đạo sư, hay khi Đạo sư tặng cho đệ tử điều gì, đệ tử có trí sẽ cúi đầu (dâng và) nhận bằng hai tay.
44. Làm việc gì cũng phải siêng năng (nhanh nhẹn và) ý tứ, không bao giờ quên (mật thệ của mình). Nếu bạn đồng tu có thái độ phá phạm (làm điều bất xứng), hãy giúp nhau hoán cải một cách thân thiện.
45. Nếu vì thân có bệnh, đệ tử không thể cúi mình đảnh lễ Đạo sư và phải làm những điều lẽ ra không được làm, dù Đạo sư không lên tiếng cho phép thì cũng không có hậu quả xấu nếu đệ tử vẫn giữ thiện tâm.
46. Còn gì để nói thêm. Hãy làm tất cả những gì khiến Đạo sư đẹp dạ, tránh tất cả mọi gì khiến Đạo sư phật lòng. Siêng năng làm cả hai.
47. “Chứng ngộ sâu nhất đến từ (việc thực hiện điều) Đạo sư (muốn).” Chính (đức Phật) Kim Cang Trì đã dạy. Hiểu rõ điều này, nỗ lực làm vui lòng Đạo sư trong mọi hoạt động (thân khẩu và ý của mình)
48. Đệ tử sau khi qui y Tam Bảo và phát tâm (bồ đề) thanh tịnh, phải nhận (bài pháp này) để giữ nơi tim (làm sao diệt bỏ ngã-mạn và) theo gót Đạo-sư (trên đường tu tuần tự dẫn đến Giác ngộ).
49. (Học pháp sơ khởi Tâm kính đạo sư và đường tu tuần tự, chung cho cả Hiển thừa và Mật thừa), đệ tử sẽ thành bình chứa (xứng đáng) để thọ lãnh Chánh Pháp. Khi ấy có khi sẽ được thọ Mật pháp. (Sau khi thọ pháp quán đảnh đúng cách), đọc lớn tiếng mười bốn giới gốc và chân thành giữ ở trong tim.
50. Vì tôi không lầm lẫn (thêm ý riêng của mình vào) khi viết, nguyện bài pháp này mang lợi ích vô lượng đến cho những ai đang theo hầu Đạo sư. Nương công đức vô lượng đến từ việc làm này, nguyện khắp chúng sinh sớm đạt.
~Tác giả cao tăng xứ Ấn Mã Minh – Ashvagosha~
Nguồn: chrome-extension://efaidnbmnnnibpcajpcglclefindmkaj/https://www.hongnhu.org/files/pdf/0-ALL/bi-ashvagosha_50-cau-ton-kinh-dao-su%5B50-verses-on-guru-devotion%5D_vie_12p_20161128.pdf
Link tải PDF: tại đây