
Phật Giáo do Đức Thích Ca Mâu Ni giảng dạy chứa đựng trong 84.000 pháp môn, tức là có 84.000 cánh cửa đi vào Pháp. Vậy thì đâu là cửa đúng, đâu là cửa sai? Trong khi hiện nay, chúng ta chỉ được tiếp cận với một số rất ít pháp môn đang còn được lưu truyền. Vậy các pháp môn còn lại đã biến mất nơi đâu?
Thật ra, trong mỗi pháp môn lớn lại ẩn chứa nhiều pháp môn phụ. Chẳng hạn như pháp môn Tịnh Độ, bên trong pháp môn này lại chia thành nhiều các pháp môn khác nhau: có pháp môn y vào pháp quán thân tướng của Đức Phật A Di Đà trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, có pháp niệm danh hiệu phật trong kinh Vô Lượng Thọ… Ngay cả trong Mật Tông cũng có những pháp tu Tịnh Độ liên quan đến Đức Phật A Di Đà. Như vậy trong các pháp môn lại ẩn chứa nhiều pháp môn khác nhau. Vì vậy, đây chính là sự phương tiện mà Đức Thích Ca Thế Tôn đã từ bi ban cho chúng sanh.
Phật giáo cũng phân chia giới luật thành ba nhóm: Biệt Giải Thoát Giới, Bồ Đề Tâm Giới, Kim Cương Mật Giới.
Biệt Giải Thoát Giới chính là căn bản giới. Đây là giới thanh văn – Giới trọng yếu cho cả hàng xuất gia lẫn tại gia. Vì sao gọi là Biệt Giải Thoát? Vì chính giới này sẽ ngăn ngừa các tục đế sanh ra từ tâm, tạo thiện duyên cho việc tu tập giải thoát.
Bồ Đề Tâm Giới chính là giới của bậc Bồ Tát. Khi Hành giả gìn giữ Biệt Giải Thoát Giới thanh tịnh, phát khởi Bồ Đề Tâm vì lợi ích chúng sanh. Lúc này, hành giả sẽ được khuyên rằng hãy giữ giới này để làm phương tiện trong việc thực hành Bồ Tát Đạo.
Kim Cương Mật Giới chính là Samaya giới, là giới chính yếu của Phật Thừa. Samaya chú trọng đến việc giúp hành giả rời bỏ bản ngã, làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh, từ bỏ những tri kiến sai lầm. Samaya là giới dành riêng cho hành giả mật thừa. Vì Mật Thừa là con đường tắt để đạt thành tựu viên mãn nên Samaya là sự cam kết có thể giúp hành giả đạt được trạng thái thanh tịnh của quả vị Phật.
Vậy điều này có liên quan gì đến vấn đề “Dòng Truyền Thừa Chính Thống”?
Trong điều thứ 11 của Samaya giới có dạy rằng: CÁC PHÁP RỜI DANH NGHĨA, KHÔNG ĐƯỢC PHÂN BIỆT, SO SÁNH, SUY LƯỜNG.
Thế nào là “pháp rời danh nghĩa”? Đó là những pháp không còn nằm trong ngôn từ diễn đạt của chúng sanh phàm tình, thuộc về sự hiểu biết của tâm.
Vì vậy, việc đem các dòng truyền thừa ra để so sánh – dòng này là chính thống, dòng kia không chính thống – thực chất chính là một dạng phân biệt, so sánh và suy lường. Vì sao lại vậy? Bởi bản chất của dòng truyền thừa gồm hai phần: Tục đế và Chân đế.
Tục đế: Dưới phương diện thế gian, dòng truyền thừa được thiết lập thông qua sự trao truyền giữa các bậc Thầy thành tựu và người học trò. Như Đức Thích Ca Mâu Ni đã truyền giới Tỳ Kheo cho năm vị đầu tiên, trong đó có Kiều Trần Như – vị Tỳ Kheo đầu tiên trong lịch sử Tăng đoàn Phật giáo. Đây chính là sự truyền thừa.
Chân đế: Đây chính là sự truyền thừa qua tâm. Như việc Đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền tâm pháp cho Đại Ca Diếp, Ca Diếp lại truyền cho A-nan. Hay như Đức Padmasambhava (Liên Hoa Sanh) truyền cho 25 đệ tử của ngài qua Tâm Giác Ngộ. Sự truyền thừa này chính là chân đế. Sự truyền thừa chính thống chính là từ tâm đến tâm.
Nếu nhìn trên danh nghĩa thông thường, chúng ta có thể thấy được rằng Tịnh Độ Chân Tông do ngài Thân Loan thiết lập sau khi đại ngộ từ Kinh Vô Lượng Thọ (Sukhavativyuha); Tịnh Độ Tông ban đầu do Tổ Huệ Viễn khai sáng; Chân Ngôn Tông (Đông Mật) do Tổ Không Hải; Thiên Thai Tông do Tổ Trí Khải (Trí Di); Pháp Tướng Tông và Câu Xá Tông do Tổ Thế Thân; Hoa Nghiêm Tông do Bồ Tát Mã Minh; Thiền Tông do Tổ Bồ Đề Đạt Ma lập nên… Như vậy các Tông Phái được Chư vị Tổ Sư lập nên từ sự sở ngộ của các ngài. Và Kim Cương Thừa cũng không ngoại lệ.
Có người cho rằng: “Muốn thành lập Tông phái cần có sự đồng thuận của người đứng đầu Tông Phái.” Nhưng ai là mới là người đứng đầu các tông phái? Hiển nhiên là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni rồi! Nhưng lẽ nào mỗi khi khởi lập một Tông phái mới, chúng ta phải quay lại thời Đức Phật tại thế để xin phép hay sao?
Việc thành lập Tông Phái vốn không cần sự đồng ý của bất kỳ ai. Vì sao vậy? Vì chính bản chất Tông Phái đã được Đức Phật xác nhận thông qua 84.000 pháp môn. Người lập ra Tông Phái không phải là giáo chủ mà là người thay thế Đức Phật khơi lại những pháp môn chưa từng được nhắc đến.
Nhưng Kim Cương Thừa đã có từ thời Ấn Độ sao lại phải khơi lại? Ví dụ như Tổ Tsongkhapa, khi thấy rằng giới luật trong hàng Tăng đoàn bị suy đồi, nhiều hành giả phá trai, phạm giới, Ngài đã đứng ra chấn hưng, thành lập Phái Mũ Vàng (Gelugpa), phục hồi truyền thống thanh tịnh của giới tỳ kheo. Và các dòng phái khác cũng như vậy. Tựa như một cây có nhiều nhánh, vậy đâu là nhánh thật, đâu là nhánh giả?
Đúng theo nhân quả và tùy theo từng thời kỳ, các tông phái sẽ được ra đời đúng theo chu kỳ Thành – Trụ – Hoại – Diệt. Khi các tông phái cũ có quá nhiều tu sĩ, hành giả, cư sĩ phá giới, phạm trai, làm hại Phật Pháp, tự khắc sẽ có những Tông Phái đứng ra cải cách để chấn chỉnh và làm Phật Pháp hưng thịnh trở lại.
Phật Pháp chỉ mang tính tương đối. Chỉ có những pháp chân đế mới mang tính tuyệt đối và các tông phái cũng vậy. Tất cả tông phái đều theo chủ trương của Đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Các tông phái đều phải y cứ trên kinh điển để giảng dạy. Không phải là do vị sáng lập Tông Phái tự thuyết và tự làm kinh điển riêng. Việc này đã được ghi rõ trong kinh điển và như sự huyền ký về thời kỳ mạt pháp này.
Phật giáo đã dạy không khinh chê các Thừa Phật Giáo và Tông Phái, cùng các tôn giáo khác – Điều này đã nói lên tinh thần lợi tha và tôn trọng Phật Giáo – Tinh thần mà đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã truyền dạy. Tại sao chúng ta lại chắp tay cung kính những tôn giáo ngoại đạo như Ấn Độ giáo, Hồi Giáo, Thiên Chúa Giáo… nhưng lại đả kích, tà kiến và cho rằng những Tông Phái khác tà đạo. Phật Giáo không tin vào đấng tối cao, đấng sáng tạo… Nhưng Chúng ta đứng trước tôn giáo đó lại chắp tay cung kính. Trái lại, những Tông Phái bên trong chúng ta, cùng thờ chung vị thầy là Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, cùng tụng chung kinh điển, trì chung mật chú… giảng dạy đúng theo kinh điển và diệt trừ tà kiến thì chúng ta ra sức phỉ báng và gán ghép đủ loại tội.
Nếu đó là những Tông Phái mượn danh Phật để trục lợi, mượn danh Phật thuyết tà pháp như Thanh Hải Vô Thượng Sư, Master Trần Tâm, Pháp Luân Công… thì việc không công nhận và ngăn chặn là hoàn toàn đúng đắn. Nhưng với những Tông Phái đường đường chính chính, giảng dạy những giáo pháp chân chính bằng những tri kiến đúng đắn, ra đời chỉ vì phù hợp nhân quả của từng thời kỳ mà chúng ta lại ra sức chỉ trích. Liệu đó có đúng với tinh thần lục hòa hay không? Điều này đã vi phạm giới Samaya thứ 12: “KHÔNG GÂY PHIỀN NHIỄU ĐẾN CÁC HỮU TÌNH CÓ NIỀM TIN”. Ngay cả niềm tin sai trái chúng ta còn phải cẩn trọng, huống chi là những niềm tin đúng đắn theo chánh kiến.
Có câu rằng: “Tịnh được khẩu nghiệp thành Phật một nửa”. Vì sao mỗi ngày chúng ta đều phải sám hối, đều phải giữ giới? Vì đó chính là bổn phận của mỗi người hành giả, phật tử. Nhưng đau buồn thay có những vị tự xưng là hoá thân của Phật Bồ Tát, là Pháp Vương, là vị đứng đầu một Tông Phái lại phạm vào các giới đó, lại chia rẽ phật giáo. Nếu thấy một tông phái chưa được công nhận chính thống, hãy giúp họ trở thành chính thống tựa như tinh thần hiệp thông bác ái giữa Vatican và các giáo phái cùng thờ Chúa theo đúng tôn chỉ, lời dạy của Chúa. Còn chúng ta – những người được cho là thanh tịnh, được sùng bái như một vị Phật, được cung phụng như vị vua mà chúng ta lại dùng nó để chia rẽ lục hòa.
Có một trang web đã đăng tải một danh sách các “Giáo Phái Có Vấn Đề”, trong đó có rất nhiều vị nổi tiếng như: Ngakpa Chogyam – Một trong những vị đạo sư nổi tiếng, có cống hiến lớn lao cho sự phát triển giáo pháp tại phương Tây; Đức Geshe Kelsang Gyatso – vị Geshe đã thành lập nên Tông Phái Tân Kadampa… Ngoài ra còn có nhiều bậc đạo sư khác, những người đã cống hiến không nhỏ trong sự phát triển của Phật Giáo tại phương Tây. Nhưng buồn thay, họ lại bị xếp chung với những tổ chức ngoại đạo mượn danh Phật như Thanh Hải Vô Thượng Sư, Lý Hồng Chí…
Phật giáo dạy rằng bản ngã chính là gốc của vô minh. Thế nhưng hiện nay nó lại được chính những vị được cho là diệt vô minh sử dụng. Liệu có đúng theo những gì Đức Phật đã dạy? Nhân quả, vô thường là chân lý quan trọng hơn hết và chẳng có ai có thể dùng tư cách của mình để liệt người khác vào danh xưng “tà đạo”. Phải chăng bản ngã đã sai khiến chúng ta làm những điều như vậy? Chúng ta luôn biện minh rằng vì sợ Giáo Pháp Phật Đà bị suy thoái nên mới làm như vậy? Những nếu đúng như vậy thì chúng ta chẳng có bất cứ niềm tin nào vào nhân quả. Đức Phật đã huyền ký trong luật Tạng rằng “Giáo Pháp Như Lai trụ 10.000 năm nhưng vì có nữ giới xuất gia nên giáo pháp chỉ còn 5000 năm”. Dù chúng ta có sợ thì việc đối mặt với vô thường vẫn là chuyện đương nhiên. Dù chúng ta có cố giữ cho mạt pháp đừng tới thì cũng chỉ vô ích. Vậy thì chúng ta liệt ra các danh sách có vấn đề này để làm gì? Đây là lời cảnh báo hay chia rẽ Tăng Đoàn? Chúng ta cảnh báo rằng họ sai trái, chúng ta phải chỉ rõ điểm nào họ đang giảng sai giáo lý. Và chúng ta đã thực sự tôn trọng các tông phái đó theo đúng thệ nguyện Samaya hay chưa? Quả thật, chúng ta đang kết luận qua một phía từ cái ngã của chính mình. Điều này thật sai trái và không phù hợp với Pháp. Kể cả trong giới luật, nếu muốn kết tội một vị, phải mời vị đó đến trước hội đồng kỷ luật, nêu rõ tội danh và công khai chỉ trích. Nhưng ở đây, chỉ một phía được trình bày, phía còn lại chỉ im lặng chấp nhận mà chưa từng được hỏi đến.
Có người cho rằng “Vị đó là Pháp Vương, là Phật sống nên có quyền làm vậy”. Nhưng danh xưng “Pháp Vương” chỉ có giá trị trong nội bộ truyền thống đó, chứ không thể dùng để phủ định các Tông phái khác. Thử hỏi xem các Tông Phái khác có chấp nhận điều này không? Đó thật ra chỉ là danh từ. Nếu chỉ vì được một cộng đồng nào đó tôn xưng là Pháp Vương mà có quyền liệt các tông phái khác vào tà đạo thì hiện nay có rất rất nhiều pháp vương. Phật Giáo sẽ loạn. Tinh thần Phật Giáo là tự giác và giác tha, cho nên thay vì dùng bản ngã để chỉ trích hay tố cáo, hãy dùng sự hoà kính mà cùng chung tay phát triển Phật Giáo.
Trên thế gian này chẳng có gì là tuyệt đối. Phật Giáo xuất phát từ sự Giác Ngộ của mỗi hành giả. Đức Phật dạy rằng “Như Lai là người chỉ mặt trăng, các người là người nhìn mặt trăng”. Vậy thì chúng ta lấy gì là tuyệt đối? Phật Giáo không phải tôn giáo quyền thần, cho nên chẳng ai có thể đứng ra thay thế Đức Phật, dù đó có là một đoàn thể đi chăng nữa. Mỗi quốc gia đều có quy định và người lãnh đạo riêng. Khi chúng ta kết tội một tôn giáo trong đất nước nào đó, chúng ta có xem lại rằng mình có vi phạm luật pháp và chuẩn mực tại nơi đó hay không. Và tất nhiên chẳng ai có đủ thẩm quyền để phán xét hay tố tội ai.
Người xưa có câu : “Cây kim giấu trong bọc lâu ngày sẽ lộ”. Vậy thì những gì chúng ta làm để nhân danh “Bảo Vệ Giáo Pháp” thực chất chỉ là “Bảo Vệ Cái Ta” của chính mình. Nó chẳng thể giúp Phật Giáo được thống nhất, chẳng thể giúp tuổi thọ của Phật Giáo được kéo dài mà chỉ gây chia rẽ, bất hòa và tranh chấp giữa các tông phái với nhau mà thôi!
Trích Bài Giảng Pháp Ngày 01/01/2017 Của Đức Pháp Vương H.H 17th Kadam Kyabje Dongchen Chotrul Rinpoche (Losang Chogyal Tenzin Yeshe Norbu)
Tôn Ảnh: Thánh Tổ Atisha Dipamkara