Tôn ảnh: Cây quy y Dòng truyền thừa Kadampa cổ Việt Nam
Tại sao chúng ta chìm trong luân hồi sinh tử? Tại sao có người tái sinh làm người giàu, kẻ khác lại nghèo; có người khỏe mạnh, người khác lại bệnh tật; có người may mắn gặp được Phật pháp, nhưng cũng có người hoàn toàn không biết đến?
Chúng ta thật may mắn khi sinh ra ở Việt Nam – một trong những đất nước hòa bình nhất thế giới, trong khi ở nhiều nơi khác, chiến tranh và đói nghèo vẫn hoành hành. Tuy vậy, có người sinh ra ở những quốc gia Phật giáo lâu đời như Myanmar, Thái Lan, Campuchia, nhưng chiến tranh vẫn tồn tại. Nếu xét trên nhiều phương diện, ta có thể hiểu rằng trong những kiếp quá khứ, do keo kiệt, bỏn xẻn, tham lam nên đời này họ phải chịu nghèo khổ. Nhưng vì từng gieo công đức, dù chưa đủ phước báu, họ vẫn được sinh ra nơi có Phật pháp.
Người tu theo Phật giáo Tiểu thừa chú trọng bốn chân lý giải thoát – Tứ Diệu Đế, trong đó điều đầu tiên cần nhận rõ là đời sống vốn khổ. Người tu theo Phật giáo Nguyên thủy chỉ có một nguyện vọng duy nhất: chứng đắc Tứ Thánh quả. Có một câu chuyện: vị đệ tử cuối cùng hỏi Đức Phật, “Bạch Đức Thế Tôn, các vị giáo chủ của các hệ phái khác có chứng quả hay vẫn là phàm phu?” Đức Phật đáp: “Giáo pháp nào có Bát Chánh Đạo, thì giáo pháp ấy có bậc Đệ nhất sa môn, Đệ nhị sa môn, Đệ tam sa môn, Đệ tứ sa môn.” (Sa môn nghĩa là người giữ phạm hạnh). Trong mười phương ba đời chư Phật, chỉ thời Đức Thích Ca mới có Tỳ kheo (Bhikkhu). Ngài gọi các vị trong Tăng đoàn là Bhikkhu, theo tên một loài hoa vùng Hy Mã Lạp Sơn có hương bay ngược chiều gió. Đức Phật dạy: “Tất cả loài hoa không bay ngược gió, nhưng hương đức hạnh thì có thể.”
Thời Đức Phật còn tại thế, tâm chúng sinh đã suy đồi, nhiều học thuyết Vệ Đà và tín ngưỡng thần linh thịnh hành. Người ta tin có một Thượng Đế tối cao tạo ra loài người, ban phước giáng họa, nên thường làm tế lễ cầu xin thần linh. Xã hội lúc ấy chia thành nhiều giai cấp, cao nhất là Bà-la-môn. Chỉ Bà-la-môn mới được thực hành tế lễ, chiêm tinh, đọc kinh Vệ Đà. Trước khi Đức Phật xuất hiện, người tu chủ yếu luyện thiền để đạt bốn tầng định: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, như dạy trong “Áo Nghĩa Thư”. Họ dùng “tưởng” để an trú trong các tầng định ấy. Xã hội coi đó là vĩ nhân, nhưng Đức Phật chỉ rõ: đạt bốn tầng định vẫn chỉ là phàm phu. Muốn sinh thiên, chỉ cần giữ ngũ giới và thập thiện. Nhưng ngay cả bậc A-la-hán (bậc thanh tịnh, đã đoạn trừ lậu hoặc, phiền não, vọng tưởng) vẫn phải trả nghiệp nơi thân này. Câu chuyện Ngài Mục Kiền Liên là minh chứng: khi cái chết đến, dù thần thông đến đâu cũng không thoát nghiệp lực. Phước báu tận, cầu khẩn thế nào cũng không thay đổi được. Những gì ta hưởng thụ trong đời đều do phước báu tạo nên, nhưng không có nghĩa là giàu có thì thoát khỏi tai ách. Khi nghiệp xấu chín muồi, quả xấu nhất định phải trả.
Giáo pháp của Đức Phật vốn có thể tồn tại 10.000 năm, nhưng khi Ngài chấp thuận cho nữ giới xuất gia – theo thỉnh cầu của Tôn giả A Nan – giáo pháp chỉ còn 5.000 năm. Đức Phật cũng chế định Bát Kỉnh Pháp cho Ni giới, trong đó quy định một vị Ni phải tôn kính một vị Tăng. Trong kinh điển Nguyên thủy có nói: người nữ không thể thành Phật. Nhưng trong Kinh Pháp Hoa lại kể chuyện Long Nữ thành Phật. Đức Phật không chỉ thọ ký cho Long Nữ, mà cho tất cả Thánh Ni đều có thể thành Phật. Khi Ngài thuyết Kinh Pháp Hoa, chỉ các bậc Thượng thủ A-la-hán mới nghe được. Giáo pháp Đại thừa là pháp khó tin, khó nghe, khó hiểu – chỉ người căn cơ, nhân duyên lớn mới có thể tiếp nhận. Trong Kinh Pháp Hoa, Đức Phật thuyết dụ ngôn về một ông trưởng giả có ngôi nhà lửa xiêu vẹo. Tam giới (Dục, Sắc, Vô Sắc) chính là căn nhà lửa ấy, còn cột kèo xiêu vẹo là đời sống vô thường, khổ não. Chúng sinh như những đứa trẻ, vô tư vui đùa trong căn nhà lửa. Vì thương con, trưởng giả bày ra xe dê, xe hươu, xe trâu để dẫn dụ chúng ra ngoài. Ba cỗ xe ấy chính là ba thừa: Thanh văn thừa, Bồ Tát thừa, Phật thừa. Khi thành đạo dưới cội bồ-đề, Đức Phật nhận thấy giáo pháp khó tin, khó hiểu, chúng sinh nghiệp chướng nặng nề, nên Ngài định nhập Niết Bàn. Vua trời Phạm Thiên thỉnh cầu Ngài truyền chánh pháp. Vì thương xót chúng sinh, Đức Phật thuyết hơn 30.000 bài kinh, chia thành năm thời: Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã, Pháp Hoa – Niết Bàn. Người tu Tiểu thừa chỉ cần tin sâu Tam Bảo, tạo phước, tu thiền, mục đích chứng quả A-la-hán. Có hai loại thiền: Thiền chỉ (Samatha) và Thiền định (Samadhi). Thiền Đức Phật dạy chính là thiền định – tức Tứ thiền. Con đường Đại thừa thì tuần tự qua bốn giai đoạn: tín – giải – hành – chứng.
Kim Cương thừa là tinh túy của Đại thừa. Nếu Đại thừa ví như vàng, thì Kim Cương là bảo báu quý nhất. Khi bước vào Mật thừa, mọi chấp trước sai lầm được phá tan bởi trí tuệ. Thành tựu hoàn toàn nương nơi Đạo sư và giáo huấn của Ngài. Giới luật Mật thừa rất nghiêm, trong đó giới trọng yếu nhất là tôn kính Đạo sư. Đạo sư phải là bậc có giáo huấn khẩu truyền, tâm ấn, mật chú, và nhất là phải chứng ngộ.
Trong Mật thừa, samaya – mối liên kết thầy trò – vô cùng mạnh mẽ. Nếu thầy chưa chứng ngộ thì không thể độ trò. Trong các pháp môn khác, thầy là người hướng dẫn; còn trong Mật thừa, Đạo sư chịu trách nhiệm đưa trò đến giác ngộ. Vì vậy, Mật thừa dạy: “Đạo sư là Phật, Đạo sư là Pháp, Đạo sư là Tăng.” Giới đầu tiên là không được phỉ báng, khinh khi, làm phiền lòng thầy. Mọi thành tựu ta có đều từ Đạo sư.
Như Pabongkha Rinpoche từng dạy: chư Phật đã nhập Niết Bàn, chỉ có Đạo sư từ bi chấp nhận giáo hóa chúng ta – những kẻ mang nhiều ác nghiệp – để có cơ hội thành Phật. Một bậc Đạo sư chân chính không sợ mất lòng ai, chỉ nương theo chánh pháp. Mà chánh pháp thì vô cùng khó thấy, khó nghe, khó hiểu, khó biết cho đúng.
Trong Mật thừa cần có quán đảnh, truyền pháp. “Mật” nghĩa là bí truyền – thầy truyền cho trò qua tâm thức. Người tu Mật thừa điều đầu tiên phải khởi tín tâm với Đạo sư thì mới có thể giác ngộ. Đạo sư chính là hiện thân mười phương chư Phật. Trong Bồ-đề đạo đăng luận, Đức Atisha nhấn mạnh: Ai muốn đạt giác ngộ trong đời này phải gặp bậc thầy chân chính, thành tựu, có giáo pháp mật truyền; nếu không, thì không thể có thành tựu nào. Mật thừa có nhiều phương tiện: khi trò lâm chung, bậc thầy có thể hóa hiện nhiều thân tướng trong bardo trung ấm, giúp trò nương tựa để vãng sinh về tịnh độ.
Tu Đại thừa, hành giả đi một mình: hiểu đúng hay sai đều tự gánh. Nếu hiểu sai nghĩa kinh, tội như giết Phật, đọa vào cõi thấp. Nhưng tu Mật thừa – nhờ quán đảnh, giáo pháp khẩu truyền – nếu lầm lạc còn có thầy nhắc nhở, chỉ dẫn để khỏi rơi lạc. Vì vậy, hãy hết sức cẩn trọng khi nương tựa. Thành tựu hay không đều tùy nơi thầy. Hãy tầm cầu bậc thầy có giáo pháp đưa đến giác ngộ, bởi chánh pháp luôn trái nghịch sở thích phàm tình. Nhận rõ điều này để biết trân quý những gì ta đang nhận từ Đạo sư của mình.
~His Holiness 17th Kadam Kyabje Dongchen Chotrul Rinpoche~
(Trích bài giảng 27.07.2025)
