topbar
topbar

Khổ, Nguyên Nhân Và Phương Pháp Diệt Khổ

Tôn ảnh: Bánh xe luân hồi (Khorlo)

Trong 12 năm đầu khi thuyết giảng giáo lý, Đức Phật nói về Khổ, nguyên nhân đưa đến Khổ, phương pháp diệt Khổ và sau khi diệt khổ thì đạt được gì. Khi một vị Bà-la-môn hỏi: “Vì sao Đức Phật lại dạy toàn điều tiêu cực như vậy?”, Ngài trả lời: “Như Lai dạy về Khổ, Như Lai dạy có nguyên nhân của Khổ”. 

Khổ không chỉ sinh ra trong đời này, mà còn trải dài trong nhiều đời, nhiều kiếp. Có người  giàu sang phú quý, còn có người thì tán gia bại sản. Người ta thường đổ thừa rằng cái khổ ấy là do “oan gia trái chủ” rồi bày ra các nghi thức cầu cúng. Nhưng trong suốt ba mươi ngàn bài kinh, năm thời giáo pháp, Đức Phật chưa từng dạy điều đó. Ngài có giảng về các cõi giới, nhưng đồng thời dạy rằng chúng ta không nên nương vào các cảnh giới vô hình ấy. Ngay cả cõi trời như Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, nơi mà một ngày một đêm dài bằng thời gian một hạt bụi rơi từ đỉnh núi cao xuống mặt đất, tuy thọ mạng dài lâu, nhưng khi hết phước trời vẫn phải đọa lạc trong vòng luân hồi sinh tử.

Đức Patrul Rinpoche từng dạy: “Tất cả các Đấng Bi Mẫn ở mười phương ba đời đã nhập Niết Bàn. Dù các ngài có lòng bi mẫn vô biên, nhưng rốt cuộc cũng đã rời xa chúng ta, vì vậy còn chúng ta vẫn còn chìm trong luân hồi sinh tử.  Ngày nay có nhiều người tự xưng đã chứng ngộ. Nhưng ma tâm luôn đeo bám ta từ đời này sang đời khác, khiến con người dễ rơi vào ảo tưởng về thánh quả. Chỉ mới chỉ đọc một quyển kinh hay một bộ luận, nếu không chánh niệm, hành giả dễ sa vào ảo tưởng rằng mình đã chứng thánh. Có người khi ngồi thiền thấy thân lắc lư, tưởng thần linh nhập, nhưng thực ra chỉ đó là “thiền bệnh” – tà ma đang dựa thân – chứ hoàn toàn chưa có chứng đắc gì cả. Nhiều người cho rằng “ma” là thực thể vô hình bên ngoài, như một hương linh. Thực chất, “ma” chính là sự hiểu biết và nhận thức sai lạc trong tâm. Có người phỉ báng Mật Tông, chỉ trích hình ảnh các bổn tôn trong tư thế hợp nhất với phối ngẫu (yab-yum) cho rằng Mật Tông vay mượn từ Kỳ-na Giáo. Đây chính là những nhận thức sai lệch về Duy Thức và Tánh Không. Trong thực hành Mật Tông, có những phương tiện thiện xảo để truyền pháp như: qua hình ảnh, qua khẩu, qua tâm từ thầy đến trò, qua các terma (mật điển ẩn tàng), hoặc qua linh kiến. Trong đó, quan trọng nhất là truyền qua hình ảnh – vì chúng ta đang ở trong cõi Dục giới, nên cần hình ảnh làm phương tiện hiển lộ chân lý. Xưa kia, Đức Phật lập ra Tăng đoàn có bốn chúng: cư sĩ nam, cư sĩ nữ, tỳ kheo và sa di. Các vị tu sĩ xuất gia sống đời phạm hạnh, còn các cư sĩ vẫn lập gia đình. Thậm chí các bậc Tư-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm vẫn có thể có gia đình. Do đó, hình ảnh các Bổn tôn phối ngẫu trong Phật giáo không phải là quan hệ tình dục, mà là biểu tượng cho sự hợp nhất giữa Từ bi và Trí tuệ: Nam đại diện cho Từ bi, Nữ đại diện Trí tuệ. Thời xưa, nhiều người không biết chữ, nên phải dùng hình ảnh để khai thị. Nhưng để thấu hiểu được ý nghĩa sâu xa của yab-yum, hành giả phải trải qua các cấp bậc tantra từ Kriya (Hành), Charya (Tác) tới Yoga (Du Già) và Anuttarayoga Tantra (Du Già Tối thượng), chứ không phải ai mới bước vào cũng có thể hiểu ngay được.

Ở Việt Nam, rất nhiều người hiểu sai về Mật thừa. Có người nghĩ rằng chỉ cần trì chú là tu Mật Tông. Nhưng thật ra, trong Mật thừa có hai giai đoạn chính: khởi đầu và thành tựu. Muốn tu tập Mật thừa, hành giả phải nương tựa vào một bậc Kim Cương Sư. Ở các pháp môn khác, thầy chỉ đại diện cho Tam Bảo làm lễ quy y và nếu cư sỹ phạm giới thì thầy không chịu trách nhiệm. Nhưng trong Mật thừa, hành giả quy y Tứ Bảo: Kim Cương Sư, Phật, Pháp và Tăng. Lời quy y là:  Namo Gurubeh (Con xin quy y Đức Kim Cương Thượng Sư) //  Namo Buddhaya (Con xin quy chư Phật mười phương) //  Namo Dhamaya (Con xin quy y tất cả giáo pháp của chư Phật)  // Namo Sanghaya (Con xin quy y chư Tăng). Khái niệm về “Kim Cương Thượng Sư” không có trong truyền thống Phật giáo tại Việt Nam, mà chỉ tồn tại trong Mật thừa. Trước đây, Tây Tạng không cho phép người ngoài tiếp cận bởi pháp này rất khó hiểu, nếu hiểu sai sẽ dẫn tới đọa lạc. Kim Cương Sư là người thay chư Phật ban gia trì, chỉ dạy đệ tử phương pháp vượt thoát khổ đau, cho ta thấy được khổ đau của thế gian có nguồn gốc từ vô minh. Từ khi ta sinh ra cho tới khi trưởng thành, dù vô tình hoặc cố ý, chúng ta đã tạo ra vô số ác nghiệp. Đức Phật dạy: nguyên nhân của Khổ chính là vô minh. Vì vô minh nên ta không biết rằng những gì đang trải qua ngày hôm nay đều do nhân quá khứ ta đã tạo. Vô minh đã theo chúng ta từ đời này qua đời khác, sinh ra từ sự bám chấp vào cái “tôi” mà ta tưởng là đang hiện hữu.  

Khi ta bị một người chửi bới, xúc phạm, ta cảm thấy “buồn”, “giận” – chính là cái “tôi” đang suy nghĩ — là sự bám chấp trong hình thức này. Ta tin tưởng rằng cái thân xác này là thực có, cuộc sống này là thực có, là trường tồn. Nhưng kỳ thực, “Mộ hoang lắm kẻ tuổi còn xanh” như lời nhắc nhở rằng cái chết không tha cho bất kỳ ai, dù già hay trẻ. Thân này chỉ phước ta mượn tạm, nhờ do trong đời quá khứ ta đã gặp Phật, Pháp, Tăng hoặc cúng dường, giữ giới, hành thập thiện mà được phước làm người hoặc chư Thiên. Thế nhưng nếu có thân người mà chẳng được thân cận bậc thiện tri thức, ta sẽ không nhận ra rằng những gì mình cái thấy, nghe, biết, trải qua chỉ là ảo ảnh được tạo ra bởi cái “tôi”. 

Đức Phật từng dạy:  Nó mắng tôi, đánh tôi // Nó thắng tôi, cướp tôi // … // Người ngu sanh ưu não // Tự ta, ta không có(Kinh Pháp cú). Cái “tôi”, cái hiện hữu, những thứ ta nhìn thấy trên thế gian đều mượn duyên mà thành, hết duyên thì tan. Có những người hôm qua ta thấy còn khỏe mạnh, nhưng hôm nay đã qua đời. Mỗi người chúng ta thường tự vẽ cho mình một tương lai – có thể u tối, có thể tươi sáng – nhưng dù thế nào thì mọi thứ chỉ xuất hiện theo cách mà nó phải xuất hiện, đó là nghiệp và quả. Ngay khi từ khi sinh ra, chúng ta đã mang theo nghiệp lực từ quá khứ. Cùng là con người nhưng có sự khác biệt: có người sinh ra trong gia đình giàu có, có người lại sinh ra trong cảnh nghèo khó. Đức Phật dạy hãy quán sát rõ ràng: mỗi chúng sinh khi sinh ra trên cuộc đời này đều mang dấu ấn của thiện nghiệp (kusala karma) và ác nghiệp (akusala karma). Thiện nghiệp đưa đến quả thiện, ác nghiệp đưa đến quả bất thiện. Kinh còn ghi: phước cúng dường là của chôn để dành cho đời vị lai. Bậc trí, nhờ thân cận thiện tri thức, luôn hiểu rằng nếu ích kỷ, keo kiệt, tham lam thì sẽ chịu cảnh nghèo khổ trong đời này và đời sau. Các nước Hồi giáo rất giàu có vì họ thực hành bố thí rất nhiều, thậm chí có thể đem cả gia sản để xây dựng thánh đường cho mọi người cầu nguyện, hay bố thí cho người nghèo. Nhưng ngày nay, nhiều người theo chủ nghĩa cực đoan, chỉ yêu thương bản thân mình hơn người khác, thiếu tha thứ, buông xả, nhẫn nhục – đó là tiền đề cho những quả xấu sinh ra sau này. Tài sản kiếm được từ việc bất chính không thể trường tồn, bởi cán cân nhân quả vốn công bằng. 

Ngày nay, nhiều người tìm đến Phật giáo, đặc biệt ở các quốc gia Phương Tây, vì thấy được niềm vui, sự an lạc nhờ giáo pháp. Giáo pháp của Đức Phật rất sáng rõ như mặt trời. Chánh pháp không phải để làm vừa lòng bất kỳ ai, mà chỉ để chỉ bày sự thật. Đức Phật dạy: khi ta tạo hành động xấu sẽ dẫn đến các quả xấu. Nếu một người khởi tác ý xấu mà chưa biến thành hành động, do họ biết dừng lại nhờ chánh tư duy thì đó là “quả không nhân”, sẽ không trổ ra quả ác. Nhiều người cầu pháp tu các bổn tôn tài bảo như Hoàng Thần Tài Dzambhala, Tài Bảo Thiên Vương Vaisravana, Tài Nguyên Phật Mẫu Vasudhara nhưng không hiểu hết ý nghĩa. Các bổn tôn tài bảo giúp tịnh hóa tâm ích kỷ, keo kiệt tham lam. Nếu không hành thiện, không cúng dường, không bố thí thì cũng chẳng thể nào có phước báu để quả tốt trổ sanh. Có câu chuyện ở Tây tạng về một vị đã thành tựu pháp Hoàng Thần Tài Dzambhala: khi tham dự bữa tiệc tại một ngôi làng, vị ấy chỉ nhận được một miếng thịt. Ông bèn triệu thỉnh và hỏi Ngài Dzambhala, liền được đáp rằng: phước của ông chỉ có bấy nhiêu thôi. Nếu bản thân ta không tạo phước báu, thì chư Phật, Bồ Tát cũng chẳng thể giúp được. Tuy vậy, cần hiểu rằng: dù giàu sang hay nghèo khổ thì mỗi người đều có nỗi khổ như nhau. Trên thế gian này, không có hạnh phúc nào viên mãn, ngoài việc bước chân vào con đường tu hành, giải phóng bản thân thoát khỏi những sai lầm trong suy nghĩ và tư duy. Khi có người mắng chửi ta, hãy quán chiếu rằng: trong đời quá khứ, ta từng tạo ra nghiệp xấu chửi họ, nay ta hoan hỉ nhận lãnh quả báo ấy. Nhờ vậy, nghiệp lực sẽ tự khắc tiêu tan. Còn nếu sân hận, ghét bỏ, trả thù, nghiệp lực sẽ tiếp tục trổ sanh, oan oan tương báo. Đau khổ hay hạnh phúc đều nằm bắt nguồn từ tư tưởng của chính từ bản thân ta mà ra. 

Ngày nay, có rất nhiều người trẻ không tham gia những thú vui thế gian mà bước chân vào việc tu hành, phụng sự và chịu sự trách mắng từ Kim Cương Sư nhưng vẫn hoan hỉ. Bởi những gì bậc Kim Cương Sư tạo ra tương ưng với những gì ta lãnh chịu. Những gì Kim Cương Sư quán xét qua tâm thức của Ngài khác với những gì một chúng sinh phàm tình thấy qua con mắt phàm phu. Tu tập là phương pháp để tịnh trừ ác nghiệp thông qua việc thường xuyên nghe pháp, lễ bái cúng dường, làm phước thiện và thiền định quán chiếu thân tâm, nhận ra nguyên nhân của Khổ là vô minh – sự bám chấp vào những gì thấy và biết, tin rằng mọi thứ là thật có. Hạnh phúc không nằm ở bên ngoài mà nằm ở sự buông xả. Nhiều người tham thiền định, khi xả thiền mất đi trạng thái an lạc của định liền trở lại trạng thái khổ. Do sợ khổ, họ lại càng tham thiền. Chính nỗi sợ cũng là nguyên nhân của khổ. Vì vậy, Đức Phật dạy ta phương pháp diệt khổ là dùng trí tuệ quán chiếu các yếu tố thân, thọ, tâm, pháp. Thân này là tập hợp bởi các nguyên tố tứ đại: đất (xương, da), nước (máu), gió (hơi thở), lửa (hơi ấm). Khi các nguyên tố này gặp các vấn đề do các nhân đã tạo trong quá khứ sẽ sinh ra các căn bệnh của thân. Người tu chuyển hóa được nghiệp thức nhờ tâm, bởi họ hiểu rằng tất cả những thứ xuất hiện trên thế gian này không ngoài hai thứ: thấy và biết. Cái “thấy” – nhận thức về thế giới – sinh ra nhờ “tưởng tri”. Có người nông dân nhìn thấy một con rắn từ xa thì sợ hãi, nhưng đến gần mới phát hiện đó chỉ là một sợi dây. Cũng giống như ta khi chưa được học pháp, chưa được biết về nhân quả. Có người làm việc thiện với tâm không hoan hỉ, không hiểu rằng như thế phước báu đã bị chiết giảm. Còn người làm việc thiện với tâm hoan hỉ thì phước báu ấy sẽ trổ sinh vô lượng. Tương tự, khi ta tham dự pháp lễ, dù chỉ vài tiếng, dù chưa hiểu hết từng lời kinh, nhưng cũng có phước báu lớn hơn nhiều so với việc dành thời gian cà phê tán gẫu – những việc có thể đem lại phiền não cho ta, hay đem “rác” vào tâm. Bởi khi đó, ta hòa vào trong từng lời kinh và lời giảng pháp của bậc Thầy và chư Phật.

Xưa kia, Đề-ba-đạt-đa (Devadatta), vốn là tỳ kheo trong tăng đoàn của Đức Phật, vì tâm ganh tị với Đức Phật nên đã tách ra để lập tăng đoàn riêng. Do tà kiến và tâm ganh tị, Đề-ba-đạt-đa dùng nhiều cách như thả voi say, lăn đá nhằm giết Đức Phật, nhưng vẫn không thể hại được Ngài nhờ phước báu trổ sanh từ việc Ngài đã thực hành ba-la-mật từ vô lượng kiếp. Nghiệp lực của Đề-ba-đạt-đa quá nặng đến nỗi đất nứt ra và ông rớt xuống. Khi đất sắp khép lại, ông kịp xin quy y Đức Phật. Nhờ sự quy y cuối cùng này, Đức Phật đã thọ ký cho ông thành một vị Phật độc giác trong đời vị lai. Tuy nhiên vì quả báo quá lớn nên vị Phật ấy khi sinh ra miệng rất hôi, không thể độ chúng sinh; do đó, khi thành Phật liền lập tức nhập Niết Bàn. Ngày nay, ta rất khó phân biệt được đâu là chánh kiến, đâu là tà kiến, mà thường đi theo số đông. Người thầy dẫn đạo vô cùng quan trọng. Người chưa thiền chứng không thể hướng dẫn người khác tu thiền. Người đã thiền chứng phải nắm rõ các thiền chi như Kinh Tăng Chi Bộ chỉ rõ: tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm để vào được các tầng thiền. Người tu hành phải có quy chuẩn theo các trình tự: thọ giới – giữ giới – hành thiền và học tập kinh văn để lấy đó làm nền tảng tu hành. Chúng sinh thời nay thường hùa theo sự lạ khác thường, đi theo số đông, tung hô cá nhân mà không biết mình đang làm khổ chính mình. Khổ ấy sinh ra từ “tưởng tri”. Lại có nhiều người mượn danh Đức Phật để lôi kéo người khác theo tà kiến của mình – đó chính là cộng nghiệp. Chúng sinh thấy khổ bởi sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) sinh ra sáu thức (thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc giác, ý thức). Từ những bám chấp này, ta sẽ dễ rơi vào mê lầm của tưởng tri, bị dẫn vào luân hồi sinh tử. 

Câu chuyện về Ngài A-nan, thị giả của Đức Phật, cho thấy vạn pháp do duyên sinh. Trong thời kỳ Đức Phật còn tại thế, Ngài vẫn chưa đắc thánh quả. Trong lần kết tập kinh điển đầu tiên, Ngài không được tham dự vì vẫn còn phàm phu, còn lậu hoặc và kiết sử. Ngài vào rừng và đi kinh hành suốt đêm. Khi ấy, Ngài đã quán sát từng cử chỉ, bước đi trong sự chánh niệm. Ngài nhận ra: các pháp trên thế gian đều không thật có, chỉ do nhân duyên mà có. Thân này do tinh cha huyết mẹ mà sinh ra, dựa vào vật thực mà nuôi dưỡng, khi bệnh nhờ thuốc để điều trị. Sau khi đi kinh hành, thân mệt mỏi, Ngài nghỉ ngơi. Niềm vui hỷ lạc sinh khởi, Ngài an trú trong đó và nhận ra rằng: khổ hạnh quá mức là nguyên nhân của tiêu cực. Khi ngồi và dần nằm xuống, Ngài đắc lần lượt Tu Đà Hoàn, Tư-đà-hàm, A Na Hàm và khi nằm xuống hoàn toàn thì đắc A La Hán. Ngài chứng đắc nhờ chánh niệm tỉnh giác tuyệt đối, kể cả khi nằm. Khi đắc A La Hán, Ngài thị hiện thần thông bay vào núi và được tôn xưng là Thượng Thủ A La Hán.

Người thân cận thiện tri thức như lưỡi với vị canh. Muốn đắc quả giác ngộ, không phải chỉ giữ giới là đủ mà phải có bậc Thầy đủ phạm hạnh dẫn đường, giúp ta đi đúng con đường Đức Phật chỉ dạy: đạo và quả – con đường của trí tuệ để diệt trừ vô minh. Đây không phải là con đường dễ dàng, mà cần thực hành tinh tấn mỗi ngày. Bản thân ta phải tịnh trừ những tà tri kiến sai lầm để thoát khỏi vô minh. Người thân cận Chánh Pháp, dù có gặp muôn trùng chướng ngại, vẫn luôn được Kim Cương Sư và giáo pháp bảo hộ. Họ vẫn vượt qua mọi chướng ngại bằng sự gia trì của Đạo Sư, tha lực của chư Phật và chư Bồ Tát nhờ lòng tịnh tín trong sạch vào Đạo Sư và Tam Bảo. Trong Mật thừa, Kim Cương Thượng Sư là bậc dẫn đạo. Thậm chí trong cảnh giới bardo, Thầy với lòng từ bi sẽ hóa hiện trong nhiều thân tướng để giúp ta thoát khỏi cảnh giới khổ đau ấy. 

Bậc Kim Cương Sư ấy phải là một vị đã chứng ngộ, thành tựu – không phải Ngài tỏa hào quang hay Ngài được nhiều người tung hô – mà qua những lời dạy chân thực, giúp phá trừ mê lầm, vô minh, như Đức Phật dạy, đó chính là phương pháp diệt khổ. Pháp Phật như thuốc đắng uống vào trừ được bách bệnh, miễn là ta phải chấp nhận “vị đắng” ấy. Chúng sinh thường thích nghe lời ngọt ngào, nhưng “mật ngọt chết ruồi”. Bậc Thánh thường chọn sự im lặng, vì nói lời ngọt mà sai Chánh pháp sẽ đưa chúng sinh vào địa ngục, chính mình cũng đọa lạc. Lời nói của Bậc Thánh luôn chân thật, giúp ta khai mở trí tuệ, nhận ra chân lý tối thượng của giác ngộ. 

~His Holiness 17th Kadam Kyabje Dongchen Chotrul Rinpoche~

(Trích bài giảng ngày 03.08.2025)

[elementor-template id="1768"]
Back to top