
Tôn ảnh: Đức Phật Kim Cương Trì (Dorje Chang)
Ngày nay có rất nhiều người tự xưng đã chứng ngộ, dựng lên những viễn cảnh khác nhau để lôi kéo người khác. Xưa kia, Đức Phật tìm cầu hai vị thầy đầu tiên để tu học và ngài đã đạt đến tứ thiền, nhưng đó vẫn chưa phải là con đường rốt ráo để đưa đến giải thoát. Bởi lẽ, thiền định chỉ là sự an trú trong trạng thái ly bất thiện pháp mà đạt đến các pháp xuất thế gian nhưng vẫn còn bám chấp, vẫn còn cái “ngã”. Còn có những người tu khổ hạnh cho rằng việc khổ hạnh, hành hạ thân xác sẽ giảm bớt ác nghiệp. Tuy nhiên, ngay trong lần đầu tiên thuyết pháp với năm anh em Kiều Trần Như, sau khi chứng đắc, Đức Phật đã dạy rằng có hai pháp mà bậc giác ngộ không làm theo: một là khổ hạnh và hai là hưởng lạc. Giữ gìn phạm hạnh không có nghĩa là hành khổ hạnh. Khi Đề-bà-đạt-đa (Devadatta) yêu cầu Đức Phật chấp thuận ăn chay tuyệt đối, sống hẳn trong rừng, không nhận của cúng dường, không dự trai tăng của thí chủ và khất thực trọn đời, Đức Phật đã từ chối. Ngài dạy rằng đó là sự biên kiến – chấp trước thái quá trong pháp hành, không phải con đường trung đạo. Trung đạo chính là sự trung dung trong pháp hành, có khả năng đưa đến giải thoát mà không vượt quá mức độ thực hành của chúng sinh.
Chúng ta thường có thói quen đi chùa, xem Phật như một vị thần thánh để cầu xin lợi lạc cho bản thân, mà không biết rằng Đức Phật đã nhập Niết bàn, như lửa tắt khi củi hết, như đèn tắt khi cạn dầu, không còn hiện hữu trên thế gian dù chỉ trong một sát-na. Tuy nhiên, theo Phật Giáo Đại Thừa, vẫn còn chư Bồ Tát chưa nhập Niết Bàn và thị hiện nơi thế gian này để độ thoát chúng sinh. Đêm trước Đức Phật nhập Niết Bàn, Ngài đã ba lần nói với Tôn giả A-nan rằng tất cả Đấng Chiến Thắng (Tathagata) đều có thể kéo dài tuổi thọ của mình. Nhưng khi ấy, Tôn giả A-nan vì chưa chứng đắc, đã bị Ma Vương che mắt bịt tai mà không khởi thỉnh cầu Đức Phật trụ thế. Đức Phật đã quán xét thấy nhân duyên với thế gian đã tận, nên Ngài quyết định nhập Niết Bàn. Lời cuối cùng Đức Phật để lại cho chúng ta “Hãy lấy giới luật làm thầy”. Đây cũng là câu mà rất nhiều người hiện nay hiểu lầm.
Trong truyền thống Phật Giáo Kim Cương Thừa có ba loại giới luật: giới Thanh Văn (bên ngoài), giới Bồ Tát (bên trong), giới Kim Cương Thừa (ẩn mật). Trong đó, giới luật Kim Cương Thừa chính là nền tảng giúp hành giả đạt tới quả vị Phật. Ngài Pabongkha Rinpoche đã dạy rằng “Bạn sẽ tiến gần tới quả vị Phật hơn nếu thực hành theo những chỉ giáo của bậc thầy”. Giới luật Kim Cương Thừa nhấn mạnh việc nương tựa nơi Kim Cương Sư, như Thánh Mã Minh đã tán dương trong Năm mươi câu kệ tụng về lòng sùng kính đạo sư. Trong Kim Cương Thừa, bậc Thầy chính là Phật!
Ví dụ, khi một vị thầy trao truyền một thần chú oai lực như Lục Tự Đại Minh chân ngôn cho đệ tử, vị thầy ấy không chỉ thành tựu được phương diện bên ngoài của pháp tu Đức Quan Thế Âm – thể nhập với Ngài – mà còn phải hoàn toàn chứng ngộ được bản tánh của tâm chính là Đức Quan Thế Âm: lòng bi mẫn vô lượng, bồ đề tâm vô cùng tận, thương xót chúng sinh và đạt được thành tựu “tương đương” như Đức Quan Thế Âm. Vị thầy ấy cần thành tựu hoàn toàn bản tánh thanh tịnh, viên mãn của Đức Quán Thế Âm. Lục Tự Đại Minh chân ngôn chính là tâm tủy của Đức Quán Thế Âm. Những ai trì tụng thần chú này sẽ đạt được các công hạnh mà Đức Quán Thế Âm đã thực hành trong vô lượng kiếp, với một điều kiện: Bồ Đề Tâm phải thực sự mạnh mẽ, rõ ràng, trong sáng một cách tự nhiên – nghĩa là tu hành, vì lợi lạc của tất cả chúng sinh, bao gồm chính mình, mà thành tựu quả vị Phật.
Ngài Pabongkha Rinpoche cũng dạy rằng “Một lợi ích tổng quát của việc nương tựa bậc thầy là con sẽ tiến gần hơn với quả vị Phật, trong khi các con đường khác phải trải qua vô số kiếp mới có thể thành Phật”. Nếu một người phát nguyện từ thời Phật Thích Ca Mâu Ni cho đến thành Phật, thì phải qua vô số kiếp thực hành Ba-la-mật. Xưa kia, Đức Di Lặc và Đức Thích Ca cùng phát khởi Bồ đề tâm nguyện thành Phật. Nhưng Đức Thích Ca đã được ấn chứng thành Phật trước, nhờ sự thực hành viên mãn bố thí ba-la-mật. Đức Di Lặc được Đức Thích Ca thọ ký sẽ là vị Phật tiếp theo, nhưng phải trải qua 4 a-tăng-kỳ 100 ngàn đại kiếp mới thành Phật. Bởi trong thời kỳ của một vị Phật Chánh Đẳng Giác, sẽ không có một vị Phật Chánh Đẳng Giác thứ hai xuất hiện.
Ngày nay, nhiều người mới chỉ đọc vài cuốn sách, nghe đôi chút kinh pháp và hiểu vài lời giảng mà đã nghĩ rằng mình có lý luận giỏi, rồi cho rằng mình đã chứng đắc thánh quả. Đây là trạng thái tẩu hỏa nhập ma. Cũng có nhiều người vì cầu pháp Mật thừa mà tin theo những kẻ tự xưng là bậc thầy Mật Tông, nhưng thiếu sự kiểm chứng rõ ràng về dòng truyền thừa: vị ấy có được chứng nhận hay không? Có chánh pháp nhãn tạng thực sự hay không? Có mật pháp tâm truyền có giáo pháp nhãn truyền hay không? Chúng ta thường dễ bị cuốn theo những lời thuận ý, rồi cho đó là chánh pháp trong khi những lời pháp nghịch ý bị gán là tà pháp. Nhưng thật ra, chánh hay tà chỉ cách nhau một cọng chỉ.
Đức Pabongkha Rinpoche nói rằng “Bạn sẽ tiến gần hơn tới quả vị Phật nhờ cúng dường và phụng sự bậc thầy”. Người Tây Tạng coi giáo pháp Mật Thừa quý như vàng. Xưa kia, khi thọ quán đảnh Đại Viên Mãn, bản thân thầy phải dâng cúng vàng mới được nhận quán đảnh. Bởi giáo pháp quý như vàng, những điều kiện mà bậc thầy đặt ra cho học trò là để thử tâm: liệu rằng họ xem thế tục hơn hay giáo pháp hơn. Đức Thích Ca xả bỏ cung vàng điện ngọc để tu hành. Chúng ta hôm nay có gì đáng xả bỏ, ngoài tham sân si?
“Nhờ phụng sự bậc thầy mà có người thành Phật ngay trong một đời. Những mật điển tối thượng thành tựu điều này rất nhanh – pháp Du già Đạo sư (Guru Yoga) là huyết mạch của con đường Mật thừa. Ta có thể thấy điều này qua cuộc đời của Milarepa chẳng hạn”. Ai từng đọc câu chuyện của Ngài đều biết: ngài chấp nhận bỏ cả thân mạng chỉ để cầu giác ngộ nơi Marpa, bởi Ngài thấy rõ thế gian này vốn dĩ chỉ là giả tạm, do nhân duyên mà hợp thành, hết duyên thì tan rã. Trong một đời mà có thể thành Phật, chỉ con đường nương tựa vào bậc thầy chân chánh, không còn con đường nào khác. Hành giả có thể tiến bộ nhanh chóng là nhờ sự với sự chân thành tuyệt đối với bậc thầy. Người Việt có câu “Tôn sư trọng đạo”. Nên hiểu rằng “sư” không chỉ là bậc thầy, mà còn là người thắp đèn, người đốt đuốc, người truyền lửa, dẫn đường. Trên con đường tu tập Mật Thừa có muôn vàn khó khăn phải trải qua, nếu không nương tựa Đạo sư, hành giả không thể tiến bộ. Một vị thầy bình thường chỉ nói lời dễ nghe vì sợ mất lòng đệ tử, mà mất đi lợi dưỡng. Nhưng một bậc thầy Mật thừa sẽ sẵn sàng lấy lợi dưỡng để thử tâm đệ tử.
Xưa kia, khi thọ quán đảnh, đệ tử phải cúng dường toàn bộ tài sản mới truyền pháp. Câu chuyện của một vị cư sĩ cầu pháp của Marpa là minh chứng: Marpa yêu cầu ông phải cúng dường mọi tài sản và kể cả con dê què còn lại ở nhà thì Ngài mới truyền pháp. Ngày nay, có người khinh chê bậc thầy yêu cầu cúng dường – đó là sự thiển cận ngu ngốc trong cuộc đời. Nếu một người không thể xả bỏ đời sống thế tục để hướng tâm tới vị Kim Cương Sư, thì việc hành bố thí cho người khác cũng chỉ vì cầu danh lợi cho bản thân mà thôi. Mật Thừa luôn đi ngược lại con đường của thế gian. Ngay cả một vị Kim Cương Sư – người truyền lửa giác ngộ, người chỉ bày con đường giải thoát – cũng đã phải trải qua vô vàn khổ hạnh, nhập thất gian nan để có thể trao truyền kinh nghiệm tu tập cho đệ tử. Không chỉ vậy, vị thầy ấy còn nhiều khi phải đánh đổi sức lực, thậm chí cả thân mạng để gia trì, bảo hộ cho học trò, đưa họ từ phàm phu lên địa vị Thánh giả. Hãy hình dung một người đang ngủ say, muốn đánh thức cần một phương tiện mạnh mẽ đặc biệt. Cũng thế, một vị Kim Cương Sư phải hy sinh bản thân để gia trì cho chúng sinh – vốn chỉ là những người dưng. Do vậy, việc phụng sự một vị Kim Cương Sư đem lại lợi lạc hơn nhiều so với đặt vào niềm tin vào một pho tượng vô tri, vô giác.
Như Kinh Kim Cang đã dạy, con người thường chấp tướng và chấp vào điều mình thấy là đúng. Vì vậy, có nhiều người tìm đến Kim Cương Thừa rồi sớm từ bỏ, bởi thấy pháp môn này quá khó. Họ quay sang các pháp môn khác như niệm Phật, cho rằng chỉ cần niệm danh hiệu Phật A Di Đà là có thể vãng sanh, không cần giữ giới luật – đó là tà tri kiến. Thực hành Phật pháp chân chính chưa bao giờ dễ dàng. Ngay cả Thiền tông, muốn định tâm theo hơi thở cũng phải trải qua rất nhiều khó khăn bởi trong một giây có hàng trăm loại tâm và suy nghĩ khác nhau sinh khởi. Những quan niệm sai lệch của những người tu hiện nay không phải do chư Tổ truyền dạy. Tổ Ấn Quang của pháp môn Tịnh độ đã dạy hành giả cần tín – nguyện – hạnh, giữ giới, xác quyết và tinh tấn niệm A Di Đà Phật thì mới được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.
Nếu người tu Mật Thừa không có sự thử thách về niềm tin nơi Kim Cương Sư thì không thể ngộ nhập Phật tri kiến. Chư Tổ xưa kia, dù phải hy sinh cả thân mạng, vẫn sẵn sàng cầu Pháp. Đủ để thấy pháp vô cùng quý giá đến nhường nào. Chẳng hạn, Đức Dromtonpa trong suốt thời gian phụng sự Đức Atisha chỉ dám khất thực để dâng cúng cho Thầy, còn bản thân chỉ ăn bơ thừa từ đèn bơ đã tắt. Đối với thầy, thầy coi Đạo sư là Bổn tôn cao nhất bởi Đạo sư là người khai thị chánh kiến, chánh pháp, trao truyền thần chú, quán đảnh và dẫn dắt thầy từng bước trên con đường tu.
Vì thế, chẳng có phương cách nào tốt hơn là đem trọn tấm lòng dâng cúng lên bậc Đạo sư của mình. Nhưng chớ nghĩ rằng dâng cúng nhiều tài bảo là đủ. Nếu cúng dường rất nhiều tài bảo có giá trị lớn mà tâm còn ngạo mạn, tự cao, thì thà đừng cúng còn hơn. Cúng dường tối thượng là thực hành đúng những gì được chỉ dạy từ kim khẩu của Đạo sư và từ đó mở rộng lòng bố thí cho tất cả chúng sinh. Con có thể cúng dường cho Tam bảo hoặc Tứ bảo bằng niềm tin không lay động và lòng sùng mộ không thối chuyển. Dẫu Đạo sư la mắng quở trách mà tâm không dao động, ấy chính là lúc con đang tiến vào con đường Mật thừa. Trái lại, nếu con chỉ thích nghe những lời ngọt ngào, khen ngợi, ca tụng sáo rỗng, thì con dễ bị Thiên Ma Ba Tuần dẫn dắt vào đọa lạc. Người tu Mật thừa như kẻ lội ngược dòng nước, như một chiến sĩ nơi trận tiền, phải mạnh mẽ và tuyệt đối nghe theo vị tướng lĩnh, nếu không sẽ thất bại. Nếu lòng sùng kính không đặt đúng chỗ, nương nơi tà sư, thì vô cùng nguy hiểm: những lời ngọt sáo rỗng sẽ đưa ta đọa lạc vào tam đồ khổ. Phật pháp chân chính không phải để làm vừa lòng bất cứ ai.
Xưa kia, Đức Phật đã trăn trở rất nhiều trước khi chuyển bánh xe pháp luân. Khi Phạm Thiên đến thỉnh cầu Ngài vì tất cả chúng sinh mà chuyển bánh xe pháp luân, Đức Phật nói “Giáo pháp của Như Lai khó nghe, khó hiểu, khó chấp nhận. Chúng sinh căn cơ yếu kém, mê muội, si mê khó có thể tiếp nhận được chánh pháp này”. Nhưng Phạm Thiên thưa: “Bạch Đức Thế Tôn, vẫn vẫn còn những bậc thiện tri thức lắng nghe lời Ngài như chư thiên chúng con và nhiều bậc thiện tri thức khác”. Vì thế, Đức Phật mới quyết định chuyển bánh xe pháp luân. Và pháp đầu tiên Đức Phật truyền dạy, cũng có thể nói pháp cuối cùng, chính là Tứ Diệu Đế. Tất cả những pháp hành như Thất Giác Chi, Tín – Tấn – Niệm – Định – Tuệ, Sơ Thiền – Nhị Thiền – Tam Thiền – Tứ Thiện, Tứ Niệm Xứ Thân – Thọ – Tâm – Pháp, Bát Chánh Đạo v.v… thì cũng không ngoài Khổ – Tập – Diệt – Đạo. Nếu phá vỡ được mười hai mắt xích nhân duyên thì sẽ phá vỡ được luân hồi sinh tử.
Người tu Đại thừa phải trải qua bốn giai đoạn: Tín – Giải – Hành – Chứng. Người tu thiền dùng tham thoại đầu để đốn ngộ, với “đại nghi, đại ngộ”. Nhưng Mật Thừa lại khác: niềm tin tuyệt đối không còn chút nghi hoặc. Bởi trước khi bước vào Mật thừa, hành giả phải tìm hiểu rõ tam thừa. Trong thực hành Mật thừa, hành giả xác quyết tâm rằng: tâm này là Phật, tâm này không ngoài Phật tánh mà ra, trí tuệ này không ngoài Phật tánh mà có. Vì thế, hành giả đặt trọn niềm tin vào Mật thừa và Đạo Sư. Thậm chí, bất kỳ Bổn tôn hay Hộ pháp cũng không thể quan trọng bằng Kim Cương Sư. Có những tự viện không hề có tượng Phật nào ngoài hình ảnh của Đạo Sư. Chẳng hạn, như dòng Nyingma luôn thờ Đức Liên Hoa Sanh Guru Rinpoche. Đạo sư và chư Phật vốn đồng thể, đồng giác ngộ, không có sai biệt. Sự giác ngộ của Đức Thích Ca, Đức Liên Hoa Sanh, Đức Atisha, Đức Tsongkhapa hay các bậc Trì Minh Vương đều viên mãn như nhau, đều lấy trí tuệ tỏa sáng phá tan sự mê lầm của chúng sinh.
Giáo nghĩa Pháp tướng tông nhấn mạnh phá bỏ sự bám chấp của hình tướng bên ngoài. Hoa Nghiêm Tông nương vào nhất thừa (Phật Thừa), pháp môn phương quảng đại thừa. Còn Mật Thừa nương vào Đạo sư Du-già (Guru Yoga) – con đường giác ngộ tuyệt đối. Chẳng có con đường nào tối thượng hơn sự hòa nhập tâm của Thầy và trò làm một, trí tuệ của Thầy và trò đồng nhất. Khi con thấu triệt giáo pháp và những chỉ dạy được bậc thầy trao truyền, thì sẽ đạt được quả vị Đức Kim Cương Trì – quả vị của Phật viên mãn. Người tu Mật Thừa sẽ phải trải qua vô vàn thử thách, gian nan, bởi mọi thứ không tự nhiên xuất hiện, mà phải do nhân duyên tác hợp. Kim Cương Sư là sự kết nối các duyên lành và cũng là sự kết nối của Phật quả đến với một con người phàm tình như chúng ta.
Ngài Long Thọ từng nói nói “Nếu một rơi từ đỉnh cao của vua các ngọn núi, thì y vẫn rớt xuống dù y cứ nghĩ là không. Cũng thế nếu một người tiếp nhận giáo lý lợi lạc của bậc thầy từ mẫn, bạn sẽ đạt giải thoát dù cứ tưởng là không”. Khi chúng ta tiếp nhận nhận giáo lý từ bậc thầy, dẫu rằng ta nghĩ rằng ta không giải thoát ngoài những giáo lý ta nghe được, bởi sự giác ngộ là không hình không tướng, ta sẽ không thể nhận thấy cho đến khi:
“Bạn có thể đến đích theo ý muốn
Nếu được thầy mang đi –
Bởi thế, hỡi dân chúng Dingri,
Hãy cung kính tôn trọng thầy,
Đấy là cái giá phải trả cho cuộc hành trình”.
Chỉ khi thực sự tôn kính thầy như dân chúng xứ Dingri, hành giả mới có thể cảm nhận được dòng cam lồ tinh túy tuôn chảy trong thân tâm. Sự giác ngộ được nuôi dưỡng như cây cối từ lúc gieo hạt đến khi nảy nầm, lớn lên phải trải qua từng giai đoạn. Vị thầy sẽ khéo léo gieo vào tâm thức học trò hạt giống trí tuệ một cách ẩn tàng mà chính học trò cũng không thể nhận ra. Rồi đến một ngày, hạt giống ấy tự nảy mầm giác ngộ – đó là sự tự nhiên sinh khởi, chỉ có những bậc thầy có giáo lý khẩu truyền mới có thể làm được.
– His Holiness 17th Kadam Kyabje Dongchen Chotrul Rinpoche (Losang Chogyal Tenzin Yeshe Norbu) –
(Trích bài giảng ngày 10.08.2025)