
Tôn ảnh: Đức Thánh Tổ dòng Truyền thừa Kadhampa Atisha Dipamkara cùng các bổn tôn
Atisha Dipankara Srijnana vẫn được coi là một trong những bậc thánh triết vĩ đại của Phật giáo Ấn Độ mặc dù ngài ít được người Ấn Độ nhắc đến. Đối với những dân tộc sinh sống quanh dãy núi Himalaya, ngài được tôn kính như một biểu tượng của tình thương, tính nhân bản, đức hy sinh và thái độ thân thiện; một bậc đại sư đã cống hiến cả cuộc đời cho việc tìm hiểu, thực hành rồi truyền bá giáo pháp của Đức Phật. Ngài đã từng truyền giảng Phật pháp tại các Phật học viện lớn như Nalanda và ở nhiều tu viện nổi tiếng khác. Ngài đóng một vai trò quan trọng trong việc khơi dậy tuệ giác và phục hưng Phật giáo trong thời đại của mình. Tư tưởng của ngài đã mang lại một sự chuyển hóa tích cực trong giới Tăng sĩ đương thời về những khái niệm liên quan đến giới đức, phẩm chất cao quý, lý tưởng và tinh thần cách mạng trong đời sống văn hóa, tôn giáo và xã hội của dân chúng.
Hành trạng của ngài được ghi nhận và lưu trữ trong rất nhiều văn bản của người Tây Tạng, hầu hết mang tính cách truyền thuyết, nhấn mạnh đến việc ngài được hướng dẫn bởi vị thánh nữ của Kim cương thừa là Đức Tara.
Tổng hợp nhiều tài liệu khác nhau, người ta có thể xác định ngài Atisha ra đời vào năm 982 tại thị trấn Vikramapura, thủ phủ của một trong những vương quốc cổ ở miền Đông nam xứ Bengal, nay thuộc Bangladesh. Tương tự Đức Phật Thích-ca, ngài Atisha xuất thân trong một gia đình vương giả, thân phụ là vua Kalyana Sri còn thân mẫu là hoàng hậu Shri Prabhavati; ngài là người con thứ hai trong số ba vị hoàng tử, được đặt tên là Chandragarbha (Nguyệt Tạng), lớn lên trong lâu đài chính của vương quốc gọi là Golden Banner Palace (Kim Phan điện). Từ nhỏ, ngài đã tỏ ra có thiên hướng về tâm linh và hết sức thông minh nên được vua cha trông đợi là người kế vị. Tuy nhiên, ngài sớm thể hiện sự quan tâm đến người khác với lòng từ của một nhân cách giác ngộ và thái độ không bị ràng buộc với cuộc sống thế tục. Ngài được hưởng một nền giáo dục phong phú; lên ba tuổi, ngài đã khéo soạn những bài kệ về thiên văn học và thông thạo tiếng Sanskrit; trước mười tuổi, ngài đã có khả năng phân biệt những giáo nghĩa Phật giáo với những gì không phải là Phật pháp.
Theo phong tục của thời đó, năm ngài mười một tuổi, vua cha đã sắp xếp cho ngài tham dự một buổi gặp gỡ với các thiếu nữ con em gia đình quý tộc để chuẩn bị hôn nhân, hy vọng nhờ vậy mà có thể cột chân ngài vào trách nhiệm thừa kế vương vị. Các văn bản Tây Tạng nhất trí rằng đêm trước buổi tiệc ấy, ngài Atisa được Đức Tara khai thị rằng ngài có nhiều tiền kiếp là một vị Tỳ-kheo tinh cần và rằng cuộc sống hôn nhân của một hoàng tử quyền thế sẽ ngăn cản con đường giác ngộ; do đó, ngài đã xin vua cha cho thực hiện một chuyến đi săn vào hôm sau.
Trong cuộc đi săn, ngài gặp một vị Bà-la-môn là Jetari đang thực hành các hạnh ẩn tu của Phật giáo, được vị này cho quy y và thọ Bồ-tát giới rồi được gửi tới Nalanda để thọ nhận các giáo pháp cao sâu hơn. Tại Nalanda, ngài gặp được vị tu viện trưởng là Avadhutipa. Ngài Avadhutipa khuyên Atisha phải được cha mẹ chính thức chấp nhận cho từ bỏ mọi trách nhiệm của hoàng tộc trước khi xuất gia; do đó, ngài Atisha trở lại Kim Phan điện. Bằng nhiều phương tiện thiện xảo, cuối cùng ngài được phụ vương và hoàng hậu cho phép xuất gia. Ngài lập tức trở lại với tu viện trưởng Avadhutipa để học về Trung quán luận và thực hành các mật chú. Trong khi thực hành, ngài có một thoáng tự hào về những thành tựu của mình và lập tức tiếp nhận một linh kiến thanh tịnh từ một vị dakini (không hành nữ) cho thấy những hiểu biết của ngài chưa có gì đáng kể. Từ đó, ngài luôn giữ hạnh khiêm cung.
Đến năm hai mươi chín tuổi, ngài Atisha chính thức được ngài Silaraksita truyền giới Tỳ-kheo, được ban pháp danh Dipankara Srijnana, được ngài Dharmaraksita hết lòng truyền dạy mọi giáo pháp của Phật giáo Nguyên thủy nhưng Atisha vẫn luôn khao khát những phương tiện trực tiếp để đạt tới sự chứng ngộ hoàn toàn. Từ Nalanda, ngài hành hương đến Bodhgaya (Bồ-đề Đạo tràng); khi đi nhiễu quanh ngôi đại tháp, ngài lại có một linh kiến, thấy hai vị dakini trao đổi với nhau, cho rằng điều quan trọng nhất để đạt giác ngộ tối thượng là việc thực hành Bồ-đề tâm với sự nâng đỡ của tâm từ bi. Từ đó, ngài Atisha quyết tâm trau dồi trí tuệ và tâm từ bi.
Vào năm ba mươi mốt tuổi, Atisha sắp xếp một cuộc hành trình mạo hiểm đến đảo Sumatra (thuộc Indonesia hiện nay) để cầu học với ngài Suvarnadvipi Dharmakirti, vị nổi tiếng là người nắm giữ mọi giáo huấn về cách phát triển Bồ-đề tâm. Cuộc hành trình kéo dài mười ba tháng với nhiều gian khổ nhưng ngài Atisha không hề ngã lòng. Khi đã đến đảo, ngài Atisha dành nửa tháng để tìm hiểu về vị thầy trước khi bái kiến. Sau đó, ngài ở lại đảo suốt mười hai năm để nghiên cứu Luận văn của các bậc thánh Maitreya (Từ Thị), Nagarjuna (Long Thọ), Asangha (Vô Trước), Vasubhandu (Thế Thân), Chandrakirti (Nguyệt Xứng), và Shantideva (Tịch Thiên) dưới sự hướng dẫn của thầy. Cũng từ vị thầy này, ngài Atisha học được kỹ thuật thiền định đặc biệt về sau phát triển thành kỹ thuật Tongleng (Nhận và Cho) ở Tây Tạng, một kỹ thuật nhằm chuyển hóa mọi năng lượng tiêu cực thành năng lượng yêu thương và có khả năng chữa trị. Sau khi trao truyền mọi sở học cho Atisha, ngài Suvarnadvipi Dharmakirti khuyên Atisha nên đến “vùng đất tuyết”, nhưng Atisha xin được trở về Ấn Độ.
Trở lại Ấn Độ, đã bốn mươi lăm tuổi, ngài Atisha tìm đến tu viện Vikramasila ở cố hương và nhanh chóng giành được sự kính trọng của toàn thể giới học giả Phật giáo đương thời. Được thỉnh làm tu viện trưởng ở Vikramasila, ngài ra sức chấn chỉnh mọi hiện tượng suy đồi của Phật giáo. Sự trở về của ngài từ Sumatra thực sự có ảnh hưởng đến việc nảy nở của văn hóa Phật giáo và việc thực hành giáo pháp trong vùng lúc đương thời. Tuy nhiên, những thành tựu lớn nhất của ngài lại được dành cho người dân Tây Tạng, đúng như lời khuyên của ngài Suvarnadvipi Dharmakirti trước lúc Atisha rời Sumatra. Khi đã năm mươi ba tuổi, ngài lại lên đường đến Tây Tạng.
Phật giáo đã du nhập vào Tây Tạng từ thế kỷ thứ VII và với sự tích cực truyền giáo của ngài Padmasambhava (Liên Hoa Sanh) ở thế kỷ thứ VIII thì Phật giáo Tây Tạng đã định hình, đẩy lùi ảnh hưởng mê tín của tín ngưỡng Bon bản địa. Tuy nhiên, sang đến thế kỷ IX, do sự bức hại của vị vua tiếm quyền là Langdharma, Phật giáo Tây Tạng suy thoái vì phải thỏa hiệp với những hành vi mê tín của tín ngưỡng bản địa để tồn tại. Khi vương triều chính thống được phục hồi vào thế kỷ XI, nhà vua Jang Chub Wo khao khát chỉnh đốn Phật giáo. Nghe danh Atisha, nhà vua đã cất công thỉnh mời ngài. Ban đầu, ngài Atisha từ chối mọi đề nghị đến Tây Tạng vì khi ấy ngài đã luống tuổi. Tuy nhiên, ngài lại có một linh kiến từ Đức Tara rằng nếu ngài ở lại Ấn Độ thì ngài sẽ thọ đến
90 tuổi, còn nếu ngài đến Tây Tạng giúp họ phục hồi tinh thần Phật giáo thì ngài chỉ thọ tới ngoài 70 mà thôi. Với lòng từ, ngài nghĩ rằng tuổi thọ của mình không quan trọng bằng việc phục hưng Phật pháp cho Tây Tạng và ngài đã quyết định. Sau nhiều sự dàn xếp công phu, cuối cùng ngài Atisha đến Ngari, thủ phủ vương quốc mà vua Jang Chub Wo đang trị vì. Tại đây, Ngài Atisha được nhà vua thỉnh cầu giảng pháp cho dân Tây Tạng, một bài pháp không quá cao siêu, chỉ cần giúp người Tây tạng “thuần hóa được tâm mình và đối phó với những hành vi xung động hàng ngày cùng những hậu quả của chúng”. Cảm động trước sự chân thành của nhà vua, ngài Atisha đã thuyết những bài pháp căn bản, về sau được biên tập lại thành tập Đèn soi đường Giác ngộ.
~Trích lược từ “Ngài Atisha và Đèn soi đường giác ngộ” ~