topbar
topbar

Ngày Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chuyển pháp luân (Chokhor Duchen)

Tôn ảnh: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cùng các đại đệ tử dưới cội bồ đề 
Có một câu chuyện kể rằng, một đời trước của Đức Phật trong một lần vào rừng, Ngài nhìn thấy năm mẹ con hổ đang vật vã vì đói. Hổ mẹ quá đói và không còn sữa cho con bú nên kiệt sức chờ chết. Chứng kiến cảnh đó, Ngài rất đau lòng và muốn bố thí luôn thân mạng của mình cho hổ đói. Ngài đã đưa đầu mình vào miệng hổ nhưng do đã quá kiệt sức nên hổ mẹ cũng không ăn nổi. Ngài bèn dùng dao rạch thân mình, lúc rạch thân mình như vậy Ngài phát ra lời nguyện rằng: “Trong kiếp này tôi dùng thân máu thịt để bố thí cho năm mẹ con hổ, và mong rằng trong kiếp vị lai khi thành Phật, tôi sẽ dùng tuệ mạng để cứu cho các vị thoát khỏi luân hồi!”.
 
Trong kiếp sau này khi Ngài thành Phật, năm mẹ con hổ đói chính là năm anh em ông Kiều Trần Như (Añña Koṇḍañña), năm đệ tử đầu tiên của Đức Phật. Và khi Ngài vừa thành Phật, người đầu tiên Ngài chuyển pháp luân và ban phát giáo pháp cũng chính là năm anh em ông Kiều Trần Như.
 
Những công đức và phẩm hạnh giác ngộ chỉ có thể tích lũy được nhờ nỗ lực tự thân suy ngẫm và thực hành giáo pháp. Bởi vậy học Phật pháp là bước đầu tiên trên hành trình tìm cầu giác ngộ. Đức Phật đã khai thị bài pháp đầu tiên cho năm vị tăng khổ hạnh: Anjanata Kaudinya, Ashvajit, Vaspa, Mahanama, and Bradrika (Kiều trần Như, Bạc Đề, Thập Lực, Ma Ha Nam, và Ác Bệ). Nhờ nhất tâm thực hành theo lời Phật dạy, họ đều đạt quả vị A La Hán và trở thành những đệ tử đầu tiên của Đức Phật, được trực tiếp thụ nhận “Bài Pháp đầu tiên” tại Vườn Nai ở Sarnath, trong vùng Varanasi, từ cách đây hơn 2.600 năm.
 
Ngay từ đầu, Đức Phật đã chắc chắn rằng Ngài sẽ tìm ra một con đường mới và hiệu quả để đạt được hạnh phúc tối thượng. Đạo Phật không đơn thuần là một tôn giáo hay niềm tin, mà thực chất là một hệ thống triết lý giải đáp những thắc mắc căn bản về bản chất sự tồn tại của chúng ta. Nguyện thực hành và hồi hướng để thành tựu là vô cùng cần thiết để theo con đường giải thoát của Đạo Phật.
 
Sau đó Đức Phật đã giảng Chân Lý về thực tại đau khổ, Chân Lý về Nguồn Gốc của Khổ, Chân Lý về Sự diệt trừ hoàn toàn gốc rễ khổ đau và Nguyên nhân dẫn đến Đau Khổ, và Chân Lý về Con Đường dẫn đến Niết Bàn. Trong mỗi sát na Đức Phật bắt đầu giảng về Tứ Diệu Đế, trái đất chia làm sáu hướng để ánh sáng soi chiếu ba cảnh giới – Dục giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Ngài còn truyền dạy Bát Chính Đạo gồm tám nhánh: Chính Kiến, Chính Tư Duy, Chính Ngữ, Chính Tinh Tấn, Chính Mạng, Chính Niệm, Chính Định và Chính Nghiệp, đây là con đường rèn luyện kỷ luật mà các chư tăng cần thực hành tu tập.
 
Khi Đức Phật khai thị lần thứ nhất, A Nhã Kiều Trần Như là người đầu tiên đạt được thanh tịnh pháp nhãn (tâm trí lọc sạch không chút bợn nhơ), nhận ra được những sự thật về đau khổ, phiền não. Vào lần giảng thứ hai, ông đã tịnh trừ được tất cả vọng tưởng mê lầm và khi Đức Phật giảng lần thứ ba, ông đã đắc quả vị A la hán. “A la hán “ là“ người trừ diệt giặc phiền não”, có nghĩa là người có tri kiến đúng đắn, chiến thắng mê lầm.
 
Ở đây, “giặc phiền não” có nghĩa là sự thèm muốn và mê đắm, và “người trừ diệt” là người đã buông xả và nhổ tận gốc tất cả những tham ái và dính mắc sinh tử luân hồi. Khi một người đạt quả vị A la hán thì tất cả những tàn dư của tham ái và dính mắc đều được tịnh diệt, giải thoát khỏi sinh tử luân hồi những vẫn chưa đạt được thành tựu tối thượng là Phật quả toàn giác vì lợi lạc của hết thảy chúng sinh, vốn là con đường hành Bồ Tát đạo.
 
Khi Đức Phật thuyết giảng lần thứ ba, cả năm người đệ tử đều thấu triệt chân lý và được giải thoát khỏi mọi nỗi đau khổ. Chư thiên nam, thiên nữ đồng hoan hỷ, vui mừng với sự kính ngưỡng sâu sắc mà nói rằng: “Đức Phật đã chuyển bánh xe Pháp trong cõi giới loài người, đây là điều kỳ diệu chưa từng xảy ra trước đây. Vì Ngài đã ban truyền năng lực giác ngộ chân lý thông qua bài pháp này, nên số lượng chư thiên (những chúng sinh thiện lành) sẽ được tăng lên và số lượng chúng sinh trong cõi bán thiên (những chúng sinh có công đức nhưng còn tâm tỵ hiềm) sẽ giảm xuống”.
 
Kể từ đó trở đi, ngày càng nhiều chúng sinh nếu chưa đắc quả vị A la hán thì cũng được tái sinh trong cảnh giới chư thiên. Không như loài người có tuổi thọ rất ngắn ngủi, cuộc sống các chư thiên có thể kéo dài hàng nghìn năm và họ vẫn có thể tận hưởng và trải nghiệm sự dễ chịu, hỷ lạc trong quá trình tu tập tâm linh cho đến khi đạt quả vị thành tựu cao hơn.
 
(Nguyên tác: “Journey to Liberation – A life story of Buddha in Mahayana tradition” Nhóm ĐBT biên dịch – Dòng truyền thừa Kadampa cổ Việt Nam trích lược và biên tập từ tài liệu tham khảo)
 
logo-foootere

DÒNG TRUYỀN THỪA

KADAMPA CỔ TRUYỀN

Liên hệ

Đăng ký nhận tin

“Khi con thật sự hướng về Pháp con sẽ trở nên hạnh phúc, buồn đau hay khổ sở thật chất cũng chỉ là khái niệm, con tin rằng khái niệm là thật con sẽ đau khổ ,con hãy nhìn mọi thứ xảy ra như là khái niệm, an lạc hạnh phúc tự sẽ đến!”

--Trích trong bài giảng của Đạo Sư--
logo-foootere

DÒNG TRUYỀN THỪA

KADAMPA CỔ TRUYỀN

Liên hệ

Đăng ký nhận tin

“Khi con thật sự hướng về Pháp con sẽ trở nên hạnh phúc, buồn đau hay khổ sở thật chất cũng chỉ là khái niệm, con tin rằng khái niệm là thật con sẽ đau khổ ,con hãy nhìn mọi thứ xảy ra như là khái niệm, an lạc hạnh phúc tự sẽ đến!”

--Trích trong bài giảng của Đạo Sư--
Back to top