topbar
topbar

Nuôi dưỡng lòng từ bi, trưởng dưỡng bằng chánh kiến

Tôn ảnh: Đức Bảo hộ Mật Pháp Ekajati 

Bồ Đề Đạo Đăng luận là bộ luận làm nguồn gốc cho tất cả những bộ luận ra đời sau này. Ví dụ hệ thống Lamrim Chenmo, Jangchup Chenmo, Jangchup Lamrim đều xuất phát từ Bộ Đề Đạo Đăng Luận. Các phái thuộc tân phái dịch thuật xuất hiện từ thế kỷ thứ 10, đều y cứ trên Bồ Đề Đạo Đăng làm nền tảng tu hành. 

Theo lịch sử Tây Tạng, chúng ta biết Atisha đến Tây Tạng từ thế kỷ thứ 10. Vị dịch giả của Atisha chính xác thì không phải Dromtonpa mà là Marpa nhưng lúc này, Marpa học với Dromtonpa tại Ấn Độ sau đó Ngài Marpa về Tây Tạng, lập ra một phái mà sau này ta gọi là Kagyu (nhĩ truyền tức là truyền thụ qua việc nghe) và phái Kadhampa (khẩu truyền đi theo giáo pháp cổ xưa của Atisha, tất cả các vị Đạo sư của phái này đều có trí nhớ rất tốt về kinh và mật điển để truyền thụ tới học trò). Đặc điểm của Kadhampa là lấy vị Đạo sư làm gốc, y cứ theo lời dạy của Đạo sư để tu hành. 

“Nên biết bậc Minh sư là vị am hiểu luật nghi, 

Tự thân mình giữ giới, truyền giới và luật nghi”

Nếu có ai từng nghĩ vị Đạo sư là vị chưa từng xuất gia là sai hoàn toàn. Tất cả các Đạo sư Kim Cương thừa trước khi trở thành một Yogi hoặc Tantrika đều phải xuất gia và am hiểu 3 loại giới luật: 

Thứ nhất là Biệt biệt giải thoát giới,(giới căn bản của Thanh Văn) gồm: 5 giới cho cư sĩ, 2 giới cho tu sĩ, 10 giới cho Sadi, 250 giới Tỳ kheo tăng, 348 giới Tỳ kheo ni. 

Thứ hai là Tam tựu tịnh giới (bồ tát giới, tâm giới)

Thứ ba là Tam muội Samaya giới 

Chư Phật 10 phương không vị nào không am hiểu luật nghi. Ngoài ra vị thầy còn biết cách truyền thụ giới luật.  

Ví dụ: khi truyền một giới Sadi, một giới Tỳ kheo cần những gì? 

Theo luật của Đức Phật, truyền giới Sadi thì không cần Tam sư thất chứng (3 vị giới sư đứng đầu và 7 vị chứng minh), việc này chỉ dành cho trung tâm Ấn Độ, còn ngoài khu vực đó thì cần 4 vị là truyền được giới Tỳ kheo, còn với giới Sadi thì không cần. 

Đối với việc thọ giới Tỳ kheo cần 4 vị Tỳ kheo trên 5 Hạ. Trong “ngũ hạ dĩ tiền, tinh chi giới luật, ngũ hạ dĩ hậu phương nãi thính giáo tham thiền”, 5 Hạ đầu tức A Xà Lê vị, 5 Hạ sau tức là Hòa thượng vị. Tức là vị nào 5 Hạ thì là A xà lê , vị nào 10 Hạ thì vị đó tức là Hòa thượng. Từ “Hòa thường” từ Trung Quốc mới xuất hiện. Ở xứ Ấn Độ gọi là trưởng hữu. 

Hiện nay các vị ở Trung Quốc hoặc Việt Nam, khi thọ giới Tỳ kheo thì 4 vị Tỳ kheo tren 5 Hạ là truyền được. nên tỳ kheo tăng cứ thế sinh trưởng. Riêng với Yogi, khi thọ giới thì cần phải từ Đạo sư của chính mình, điều này bắt buộc. Yogi chính xác không phải là cư sĩ. Tây tạng có hai tăng đoàn: y trắng giữ giới luật thanh văn 5 giới, nhưng giới luật yogi thì rát nhiều và khắt khe về Thân, khẩu và ý. Việc này đòi hỏi Đạo sư truyền giới phải có sự nhẫn nhục. Có 5 thời kỳ ứng với 5000 năm của Phật Pháp như lời Đức Phật tiên đoán: Kiếp trược, Kiến trược, Phiền não trược, Chúng sinh trược, Mạng trược. 

Cái thấy của chúng ta bây giờ không còn thanh tịnh nên điều tốt người khác làm ta không nhớ nhưng điều người khác làm ta không vừa lòng thì nhớ hoài. Cho nên Kiến trược là những điều xấu ta luôn ta thấy trước điều tốt nhưng với thánh nhân thì ngược lại, Tham, Sân, Si từ không từ đó sinh lên. Phải biết rằng Tâm ta đầy phiền não thiêu nhẫn nhục. Vị Thầy chỉ có lòng Bi mẫn thì đoạn trừ được hết những vấn đề nêu trên còn chúng ta có sự tha thứ chứ thiếu đi sự thương xót. 

“Nếu tìm mà không gặp bậc thầy nào như thế 

Vẫn còn một cách là thọ giới bồ tát” 

Nếu không tìm được vị thầy nào đầy đủ các điều kiện: Trí tuệ, Từ bi, thông hiểu luật nghi và sự nhẫn nhục thì đức Atisha sẽ nói lên phương cách để có thể thọ giới. Nhưng nếu tự chúng ta đã gặp không thọ một vị thầy có đầy đủ các điều kiện trên mà thọ giới là sai. Bởi sự kiêu căng ngã mạn. Một bậc thầy phải có đầy đủ phẩm tính để độ chúng sinh, đôi khi làm hài lòng người này là mất lòng người khác, 5 người 10 ý sẽ chẳng thể nào làm vừa ý tất cả giống như trong một trận bóng, vị trí của người tu hành giống như khán giả ngồi xem nhưng cái sai của ta là thay vì làm người ngồi xem thì lại tự để mình tham gia vào trận bóng như cầu thủ trên sân và bình luận vào công việc truyền pháp của bậc thầy. 

Giác ngộ phải chăng là thấu suốt tứ diệu đế, thất giác chi, bát chánh đạo, thiền định hay giác ngộ là thanh tịnh giữa cơn mê? Tri kiến thanh tịnh không đến từ phiền não. Phật là ở cái thấy, nghe. biết, đủ thanh tịnh. Duy trì cái thấy thanh tịnh cần có chánh kiến. Người trí biết đó là nhân khổ thì chỉ cần thấy cái tốt của người khác mà không cần bận tâm vào cái xấu. Chánh kiến sẽ sinh chánh niệm, chỉ cần vọng tưởng và phiền não khởi lên mà không nhận thức được, ta sẽ rơi vào vòng trầm luân của luân hồi sinh tử, hãy thực hành trì minh chú Om mani padme hum để cần bằng lại. Dùng chánh tư duy duy trì hoạt động đời sống theo như Pháp. Đừng thấy cái xấu của người khác, nhìn nhận cái xấu của người khác mà nhìn nhận lại bản thân mình cũng chưa hoàn hảo, khi đó biết tự điều hòa bản thân, mọi thứ trở nên tốt đẹp hơn, nuôi dưỡng lòng từ bi, trưởng dưỡng bằng chánh kiến. 

“Con xin đối trước các bậc Hộ pháp, nguyện xin phát tâm vô thượng bồ đề.

Mời chúng sinh về chứng giám cho con. 

Nguyện sẽ quảng độ chúng sinh thoát khỏi ràng buộc luân hồi”.

Đối trước chư Phật, Bồ tát, Tâm phải thực sự thanh tịnh. Bởi ở nơi của các vị Phật đều thanh tịnh, đối trước bậc thanh tịnh, tâm ta cũng cần như vậy. Tam tụ tịnh giới là ba giới thanh tịnh: thân giới, tâm giới, tri kiến giới (trí tuệ). Thân giới thì có thể tự truyền nhưng tâm giới phải từ vị thầy truyền cho. Bất cứ vị nào có Bồ đề tâm rộng lớn thì đều là vị Phật. 

“Từ nay đến ngày con đạt giác ngộ, nguyện từ bỏ hết tâm lý ô nhiễm, ác ý, giận dữ keo bẩn, ganh ghen. 

Nguyện giữ giới hạnh từ bỏ ác, tham, vui việc giữ giới, nối gót chư Phật.”

Tâm Bồ Đề cao thượng là tâm bồ đề giác ngộ bản thân. Tâm Bồ đề viên mãn là hoàn hảo đoạn đầu, hoàn hảo đoạn giữa, hoàn hảo đoạn cuối. Đó là tâm không vì một đối tượng nào mà vì tất cả chúng sinh sáu cõi, không phân biệt để trở thành một vị Phật. Hãy phát nguyện không để ác tâm, bỏn xẻn xâm chiếm tâm mình. Dùng chánh kiến, chánh giác, chánh tư duy, chánh định là những gì đồng hành cùng chúng ta đến ngày giác ngộ. Bản chất của chư Phật thì không còn dục, trong sạch như không khí. Ngày nay chúng ta may mắn vì gặp được đúng vị thầy thông làu giới luật, tâm đầy bi mẫn thì hãy mau gấp rút tu tập để thành tựu giải thoát khỏi luân hồi. 

“Nguyện không vì mình mà ham mau chóng thành tựu giác ngộ. 

Nguyện luôn ở lại làm người sau cùng.” 

“Một vị bất phân thành Phật, chúng sanh độ tận vô chứng Bồ Đề”, tức là độ chúng sinh đến khi địa ngục không còn chúng sinh nào nữa phải là người có lòng bi mẫn vô cùng vô tận. Học tu hành Phật, hoan hỉ trì giới không dễ. 

Ngày nay chúng ta có rất nhiều lý do để ngụy biện cho việc quên trì giới nhưng ngày xưa chư tổ có rất nhiều lý do để trì giới. Hoan hỉ rằng trong thời gian tu hành, bản thân thầy rất nghiêm túc trì tụng, giữ đời sống thanh tịnh. Vậy nên, việc giữ giới là điều rất đặc biệt, là hành trong tất cả các hành. Không ai trên thế giới muốn hạnh phúc mà không giữ giới, đấy là con đường giúp ta từ bỏ những giới gây ô nhiễm. Ở đây, đức Atisha dạy hành giả rất nhiều về cách trì và giữ giới bởi Ngài cũng vậy, Dòng truyền Kadhampa là dòng truyền của những người trì giới, tất cả những gì được thọ nhận cần nghiêm tục hành trì bởi đây là cách tích đức và tạo phước. 

~H.H 17th Kadham Dongchen Rinpoche~

Bài giảng Ngày 11.09.2022 – Trích Bồ Đề Đạo Đăng Luận

logo-foootere

DÒNG TRUYỀN THỪA

KADAMPA CỔ TRUYỀN

Liên hệ

Đăng ký nhận tin

“Khi con thật sự hướng về Pháp con sẽ trở nên hạnh phúc, buồn đau hay khổ sở thật chất cũng chỉ là khái niệm, con tin rằng khái niệm là thật con sẽ đau khổ ,con hãy nhìn mọi thứ xảy ra như là khái niệm, an lạc hạnh phúc tự sẽ đến!”

--Trích trong bài giảng của Đạo Sư--
logo-foootere

DÒNG TRUYỀN THỪA

KADAMPA CỔ TRUYỀN

Liên hệ

Đăng ký nhận tin

“Khi con thật sự hướng về Pháp con sẽ trở nên hạnh phúc, buồn đau hay khổ sở thật chất cũng chỉ là khái niệm, con tin rằng khái niệm là thật con sẽ đau khổ ,con hãy nhìn mọi thứ xảy ra như là khái niệm, an lạc hạnh phúc tự sẽ đến!”

--Trích trong bài giảng của Đạo Sư--
Back to top