
Tôn ảnh: Đại thành tựu giả Dromtonpa, một trong những đệ tử cận Đức thánh tổ Atisha,
Ngài đã chứng ngộ giáo lý qua việc phụng sự Đạo sư của mình
Trong truyền thống của Đức Phật, chúng ta thường hay nghe câu nói “Y pháp bất y nhân”. Vậy đâu được coi là “pháp”, đâu là “nhân”? “pháp” có từ đâu, “nhân” có từ đâu?
Trong truyền thống Phật giáo Nam truyền thì không có “Tứ Quy Y” ( quy y Đạo sư, Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng), trong Pali tạng không có “Tứ Quy Y”, chỉ trong Hán tạng vì thứ nhất, người Trung Quốc quá giỏi, thích phô trương danh tướng mà không nương vào vị thầy nào cả. Thực tế Bồ đề Đạt Ma chưa từng là tổ của bất kì ngồi chùa nào ở Trung Quốc, ngài là một hành giả Yogi và Ngài cũng không có y bát để truyền. Pháp quán Tâm là pháp đầu tiên đi vào Mật thừa mà Ngài truyền thụ cho hành giả ở đó cùng với một số giáo lý nhưng vì giáo pháp khi đưa tới đây bị người bản địa biến thể và làm sai lệch đi rất nhiều, chính vì điều này, Bồ Đề Đạt Ma đã bế quan 9 năm và chỉ nhận một vài đệ tử để truyền thụ lại nhưng cuối cùng việc truyền Pháp cũng đi vào ngõ cụt. Vốn dĩ “đốn ngộ” không hề có vì gốc không có thì lấy gì để mà “đốn”. Còn tôn chỉ Thiền tông Việt Nam là “Biết vọng không theo”. Thời nay, Thiền đã bị biến chất rất nhiều, pháp môn tu cũng vậy.
“Tuệ giác và thực chứng về đạo lộ của Tăng”, ở đây ý nói hai ngài Dromtonpa và Jangchub Ö Rinpoche là những vị hầu cận đức Atisha nên về phương diện thực chứng, họ có nhiều tuệ giác và kinh nghiệm hơn Maha Yogi. Những vị hầu cận kế bên các Bậc Tuệ giác là những người chuyên thực hành thiền cũng như chứng đạo cao hơn vị Maha Yogi. (Maha Yogi được hiểu: Maha tức là lớp, Yogi tức là Du già. Đạo sư dòng truyền thừa Kadampa cũng là một Maha Yogi – Đạo sư du già). Ngài Atisha đã thấy được điều này và bảo với Dromtonpa “đã chứng ngộ vì hầu cận ông thầy già của Ngài”.
Có rất nhiều điều thú vị trong Mật thừa, bởi hành giả khi trì chú đôi khi cũng không hiểu ý nghĩa của câu chú mình đang trì. Ví dụ như thần chú 6 âm “Om Ma Ni Pad Me Hum” là thần chú với nội lực rất tuyêt vời từ lòng bi mẫn của đức Quan Thế Âm. Câu thần chú đơn giản này chứa đựng nhiều điều hơn chúng ta nghĩ. Hoặc ví như cách dạy con mỗi người mỗi khác nhưng đều đưa đến chân lý để uốn nắn đứa trẻ nhỏ.
Quay trở lại việc Atisha nói ở trên, các bậc thầy siêu việt thường dùng các phương thức khác nhau để hành giả thực chứng và hiểu biết trên những phương tiện. Nhiều người đang lầm tưởng khi thấy tại các tu viện nổi tiếng có những giảng sư ngồi trên những pháp tòa giảng pháp hay các vị Đạo sư làm quán đảnh Mật thừa nhưng lại không biết rằng những bậc thầy thực sự đưa tới lợi lạc và cứu giúp được chúng sinh kì thực không phải như vậy.
Người Việt hay có cách tự chọn thầy, niềm tin đối với Đạo sư của mình quá ít, vì chỉ nhìn bên ngoài vị thầy đó để đưa ra những nhận định phiến diện sai lầm, rằng tuổi phải cao, phải có thật đông đệ tử… nhưng xưa kia ngài Atisha cũng chỉ có 1 vài đệ tử mà làm nên cả một truyền thống Kadampa. Đạo sư trong Mật thừa luôn luôn đứng đầu, điều này không phải tự nhiên mà có, bởi các vị Đạo sư cũng đã từng phải trải qua sự rèn luyện và dạy dỗ rất khắc nghiệt để đi đến thành tựu.
Bước vào thiền Vipasana sẽ rất nhanh đưa đến quả vị Thánh nếu hành thiền xả (buông xả tâm bám chấp bên ngoài và bên trong để đạt được chứng ngộ). Cũng như vậy Ngài Dromtonpa do tận tụy bậc thầy mà chứng được thiên nhãn, đọc được tâm của những con kiến ở cách ngài rất xa, Ngài là cha đẻ của giáo lý Kadampa và giáo lý Atisha vĩ đại, những giáo lý thanh tịnh. Đây là giáo lý thừa hưởng của giáo lý Mật thừa (giáo lý khai ngộ) dạy chúng ta đi con đường ngắn nhất đưa tới thành tựu giác ngộ, giúp ta phân biệt sự sai trái và đúng đắn.
Thế nào là sai trái? Có những vị tự hào vì uyên thâm giáo pháp (tinh thông Du già, Lăng nghiêm, Hoa nghiêm v.v…) nhưng khởi nguồn của những giáo lý đó từ đâu thì chẳng ai trả lời chính xác. Giáo lý Mật thừa không dựa vào kinh văn Hiển thừa mà dựa vào sự khai thị từ bậc Đạo sư và chánh pháp mà ngài truyền dạy, cho dù mỗi hành giả được tiếp nhận giáo lý một cách khác nhau. Cái thấy và biết của mỗi hành giả làm nên trí tuệ của mỗi người, ở việc hàng ngày phát triển Bồ đề tâm và lòng sùng kính với Đạo sư mà buông bỏ tham, bám chấp. Có những người với Tâm sân đang hiện hữu, Tâm đau khổ đang hiện hữu, Tâm hoan hỷ đang hiện hữu, quán sát để thấy Tâm mình đang ở đâu?
Thấy là chánh niệm, biết là thiền. Hai đối tượng này lấy đó làm đề mục để tu hành. Trong việc trì chú cũng vậy. Khi trì thần chú “Om MaNi Padme Hum”, ta biết ta đang trì chú, ta thấy ta đang trì chú chứ đừng trì để cầu thần thông. Hành giả nương vào việc trì chú (thấy và biết) để Định phát sinh từ đó đưa đến an lạc. Chánh kiến trong lúc trì chú xuất hiện, là một trong những đề mục đặc biệt trong Mật thừa, chẳng có cách nào thoát khổ ngoài việc phải tự thực hành. Rất nhiều vị tu hành và cũng gặp nhiều nỗi khổ sở, bậc Đạo sư cũng phải đối mặt với điều này, đừng ngại đối diện vì còn thân là còn khổ và còn khổ là còn giác ngộ. giác ngộ là thấu suốt, nhận biết rõ bản chất của sự thật.
Chúng ta thường có xu hướng thích các bản Kinh tiếng Tạng. Thiện hạnh của bậc thánh có tính chất quảng đại hay không là nhờ vào tâm của vị thánh ấy, phân biệt rõ đâu là Tâm thành kính và đâu là Tâm ngã mạn nhờ đó mà đi sâu vào dòng pháp tương tục (sự truyền thừa giữa thầy và trò) từ đó mới giữ tâm từ đầu tới cuối luôn thông suốt.
Trích đoạn bài giảng “Giải thoát trong lòng tay” ngày 31.03.2024
~H.H 17th Kadam Dharmaraja Vajrayana Tulku Dongchen Rinpoche~