
Tôn ảnh: Đức Bồ tát Văn Thù Sư Lợi (Manjushri)
Từ thời kì của Đức Phật (thời kỳ Chánh Pháp) chưa có việc chia tông phái nhưng tính từ thế kỉ thứ 1 (thời kỳ của Tổ Long Thọ) bắt đầu chia ra các tông phái khác nhau, lúc này Đại thừa xuất hiện. Đại thừa là con đường rộng lớn của Chánh Pháp, Tiểu thừa là con đường nhỏ cho phép một người đạt được giác ngộ Phật quả nhưng chỉ cho riêng bản thân mình.
Trong số thập đại đệ tử của Đức Phật là các Thượng Thủ A La Hán, các vị Thượng Thủ này thường là Bồ Tát. Và bởi nguyện lực để làm lợi lạc cho chúng sinh nên các ngài không chọn nhập Niết Bàn mà một số vị chọn cách tái sinh lại cõi thế gian này.
Bồ tát (hay còn gọi là Bodhisattva – Bồ Đề Tát Đỏa) được chia làm hai loại: Bồ tát đã chứng đắc và Bồ tát phàm phu. Các vị Bồ tát là những người phát nguyện trở thành Phật, ví dụ như Đức Thích Ca Mâu Ni, khi ngài chưa trở thành Phật, ngài cũng là một vị Bồ tát. Hành giả nếu được thọ Bồ Tát giới cũng được coi là một vị Bồ Tát (Phàm phu Bồ Tát hoặc Học Pháp Bồ Tát). Đức Quan Thế Âm Bồ Tát (quá khứ ngài là Chánh Pháp Minh Như Lai) đã trở thành Phật rồi nhưng khác với Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, ngài không chọn nhập Niết Bàn mà ở lại nguyện làm lợi cho chúng sinh mà hiển thị ra thân của Bồ Tát ở trong 6 nẻo luân hồi. Bồ Tát Quan Âm ở địa thứ 11 (Đức Tara, hóa thân của Đức Quan Âm nằm ở địa thứ 12).
Trong Đại thừa, chia ra nhiều tông phái, ở Nhật Bản có các tông phái chính là Chân Ngôn Tông, Pháp Hoa Tông, Tịnh Độ Tông (phái này các nhà sư được phép lấy vợ và có tài chính, đây là thời kì chúng sinh bắt đầu đi lạc hướng). Ở Việt Nam, từ trước chưa có Mật Tông, gọi là Trung Mật hay Đông Mật, người tu tự hành trì và tự ý sử dụng mật chú dẫn đến việc bị Tẩu hỏa nhập ma rất nhiều. Với Mật tông Tây Tạng, chỉ tuân theo một truyền thống Nalanda, quy y bậc Đạo sư duy nhất. Đạo sư trao truyền pháp tu nào cho hành giả thì đó trở thành pháp tu chính. Vì vậy, một vị học trò nương tựa vào Đạo sư rất quan trọng.
Thành ngữ Việt Nam có câu “Không thầy đố mày làm nên” cũng giống như trong Mật thừa, việc nương tựa vào Đạo sư là duy nhất. Hành giả dẫu có thực hành bất kỳ pháp tu nào đi nữa cũng không thể bằng pháp tu sùng kính Đạo sư. Tổ Mã Minh có nói: “Sùng kính Đạo sư là nền tảng của giác ngộ”. Đạo sư trong truyền thống Mật thừa là người được chọn kế thừa các pháp tu của truyền thống đó, ngài có đủ khả năng, trí tuệ để độ chúng sinh. Có rất nhiều Lama và Rinpoche nhưng không nhiều trong số đó trở thành Đạo sư bởi vì Đạo sư không chỉ là người hướng đạo mà còn là vị Phật trong lòng tất cả các hành giả. Những người tự tu Mật tông mà không có Đạo sư bị mắc chứng cao ngạo, bản ngã càng ngày càng lớn, thường hay nằm mơ thấy những thấy Phật, Bồ Tát, tự hành trì các pháp tu và viễn tưởng về bản thân đã trở thành Phật, A La Hán, Bồ Tát. Hành giả thường hay dính mắc và việc nghĩ rằng mình đã đắc Thánh chẳng ai muốn là Phàm phu, sự cao ngạo khiến chính hành giả xem thường bậc thầy, tự nghĩ rằng tự tu tự chứng. Người Việt Nam có câu “Lấy pháp làm thầy”, vậy pháp nào dùng để coi như vị thầy?
Ở phái Tịnh Độ, có rất nhiều bản kinh nhắc về Đức A Di Đà: Kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, Tiểu bản A Di Đà, Đại bản A Di Đà. Nhưng không có sách nào chỉ được người tu phải làm thế nào để về được cõi A Di Đà. Nếu chỉ niệm 1 câu A Di Đà mà thành được Phật thì đã không thuyết Tứ Diệu đế, Bát chánh đạo, Thập nhị nhân duyên, không có Kinh Pháp Hoa, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Lăng Già, Kinh Lăng Nghiêm. Bản thân người tu tự cho mình cao ngạo đọc kinh là hiểu được nghĩa, chỉ những người Trí Tuệ khi nhìn bản kinh mới nhận ra được Pháp tướng. Kinh Pháp Hoa nói về Pháp tướng của Đức Phật, về chân tánh, pháp tánh, bổn lai diện mục, chân như Phật tánh trong mỗi con người. Mỗi chúng sinh đều có chủng tánh của Đức Phật như vậy.
Tuy nhiên, ở Mật thừa, không tụng Kinh Pháp hoa, Kinh Hoa nghiêm mà đọc Guru Puja (Nghi quỹ cúng dường Đạo sư) vì Đạo sư chính là vị Phật của hành giả trong thân tướng của con người, Các vị Phật, Bồ Tát đều không thị hiện để giảng pháp cho chúng ta, trừ vị Đạo sư, người giúp hành giả thành tựu. Trong Mật, thừa, theo chân một vị thầy tâm linh là con đường duy nhất. Quy y trước tiên là với Kim Cương Thượng Sư (Đạo sư) sau đó mới quy Phật, Pháp, Tăng. Chư Phật 10 phương đã nhập Niết Bàn nên các ngài chẳng thể khai thị được cho hành giả, khi hành giả gặp được Đạo sư, được khai thị thấy được chân nhân, chủng tánh. Đạo sư nương trên nhân duyên mà thấy được chủng tánh, giúp hành giả đạt được thành tựu.
14 mật giới chính và 28 mật giới phụ, rất khó để giữ trọn vẹn nhưng khi hành giả giữ trọn được lòng trung thành thì tức là hành giả đã giữ trọn các giới trên. Đạo sư cũng là người đã thành tựu các pháp tu, thực chứng thành tựu và làm lợi cho chúng sinh. Hành giả đều hiểu bản thân là phàm phu, đôi khi không tránh được việc làm sai, hiểu sai, nghĩ sai. Đạo sư chính là người dạy cho chúng sinh những điều đúng đắn. Khi tâm thức chín muồi, lòng sùng kính khởi lên, hành giả sẽ cảm thấy vị trí của vị Đạo sư rất quan trọng.
Đức Dromtonpa đã dành trọn cả cuộc đời chỉ để phụng sự vị thầy của Ngài là Đức Atisha, Pháp tu của Dromtonpa là pháp tu phụng sự bậc thầy. Có rất nhiều các vị Latma và Rinpoche thời gian gần đây trở về Việt Nam để giảng pháp với bề ngoài hào nhoáng thu hút rất nhiều người tu nhưng những người đi theo các vị ấy lại không hiểu việc cốt lõi của mình đi tu là để làm gì? Khi khác biệt về ngôn ngữ khiến cho vị thầy và hành giả không đồng ngôn ngữ trong giao tiếp, bởi vậy khi hành giả tu với các Rinpoche nước ngoài thường không đạt thành tựu vì lòng sùng kính chỉ được xuất hiện khi mà học trò có thể nghe được, hiểu được, thấu triệt cái nghe, cái thấy, cái sở kiến của hành giả. Việc kết nối thầy trò này rất quan trọng.
Đạo sư Kadam Dongchen Rinpoche là hóa thân của bậc thánh tổ sáng lập ra truyền thống Phật học Tây Tạng, Tumton Londro Drakpa, vị kết tập hoàn chỉnh. Trường phái Kadampa cổ và Gelugpa đều cùng một tu viện Narthang, tất cả các Dalai Latma đều xuất thân từ đây. Nhiếp chính của tu viện Retig là Retig Rinpoche là một trong những vị Tổ của Kadam. Chưa có một giáo pháp hay vị nào tuyên bố Kadampa không còn, không ai thay thế được tổ Atisha. Hai vị tổ của Gelugpa là Dalai Latma và Garden Tripa, dòng mũ vàng (dòng đức hạnh) đồng hóa cùng Kadampa hòa hợp thành một. Từ đời Dalai Latma thứ 5, sự phát triển của Kadampa trở nên biến đổi. Hiện nay có Cổ Kadam và Tân Kadam. Thời kì chư tổ quay trở lại đang phát triển và rất nhiều hóa thân của các vị chư tổ đã xuất hiện.
~His Holiness 17th Kadam Dongchen Rinpoche~
Trích bài giảng ngày 09.06.2024