
Trong chín thừa tu hành có thể ati yoga hay zdogchen là đặc biệt khác, bởi vì nó từ khởi đầu đến cuối không có gì là không hoàn thiện, trong tất cả các cấp tantra không phân biệt tantra nội hay ngoại, hầu hết đều đi theo thứ tự rõ ràng tuần tự, thứ lớp tantra cũng có từng giai đoạn riêng biệt, như cách thức của Vô Thượng Du Già đều yêu cầu một thiền định rõ ràng, sự xác tín hoà nhập giữa bổn tôn và hành giả, sự phân biệt chấm dứt. Có thể nói nhị nguyên đã dừng, hành giả cảm nhận trạng thái thức tỉnh rất rõ ràng về tri kiến bổn tôn, hoàn toàn biến mất trạng thái đối tượng phân biệt, mặc dù như vậy nhị nguyên cũng chưa hoàn toàn dứt bặt, nó đâu đó vẫn âm thầm ngủ ngầm hiện hữu, những mức độ vi tế này thật sự khó thể nào nhận biết.
Giáo lý Vô Thượng Du Già mà Lama Atisha đã giảng dạy rõ trong Bồ Đề Đạo Đăng Luận tuần tự thứ lớp, bởi vì chú trọng đến chứng ngộ thực tại tối thượng mà trung quán thực hành. Giáo lý Lamrim lần đầu xuất hiện vào thời kỳ Đức Tsongkhapa , mặc dù giáo lý Bồ Đề Đạo Đăng đã diễn giải tuần tự thứ lớp, cũng nêu rõ quan điểm từ mật điển, nêu lên quan điểm rõ ràng của các luận sư của thâm quán – quảng hành. Ngài Tsongkhapa đã dày công phân tích từng giai đoạn dựa trên nền tảng của Tổ Atisha, Lamrim tỉ mỉ phân tích từng giai đoạn của tu hành theo thứ tự của hiển thừa và mật thừa, ngài đã làm sáng tỏ những giáo huấn Jorlong mà Kadhampa thực hành thành một quy trình rõ ràng.
Mặc dù Vô Thượng Du Già là pháp cao cấp của các tantra mẹ vẫn chưa thực sự thoả mãn các Tri Kiến tối hậu, “Giải thâm mật kinh” nêu rõ quan điểm của thực tại thắng nghĩa đế của Duy Thức, các thắng nghĩa hay trạng thái siêu việt của tâm thức được trình bày mạch lạc trong 8 phẩm. Các luận giải của các luận sư vĩ đại đã phần nào nêu rõ sự quan trọng của các tantra, đem tất cả các mật điển mà Đức Phật đã giảng dạy kết tập rõ ràng thứ lớp tuần tự thực hành.
Atiyoga hay zdogchen Đại Toàn Thiện nêu rõ bản tính viên mãn của tất cả các đặc tính, không phân biệt tantra nội ngoại. Đại Toàn Thiện nêu rõ 4 cái thấy của thị kiến, bản chất tánh không của tâm được thấy như hư không tự nhiên, mọi thứ đều tự nhiên không có chủ thể đối tượng hay một thực tại mà trước đó các giáo lý Upanisha nêu lên. Trong Đại Toàn Thiện bản chất của cái thấy giống như Phật Phổ Hiền thanh tịnh, không nhiễm ô dù một chút nhỏ cũng không thể, bản tánh toàn thiện này không có sự cố gắng hay bất cứ động thái nào từ tâm, mọi thứ trở về trạng thái tự nhiên của vô tự tính, không có sanh khởi bất kì một trạng thái hay đối tượng nào.
Khác biệt của Đại Toàn Thiện ở chỗ không có đối tượng vô thượng như các tantra khác, trong các giáo lý tantra đều có phân chia rõ ràng thứ lớp tu tập. Trong các giáo Mật Tập hay Yamantaka, các tantra mẹ như vajrayogini hay kalachakra đều nêu rõ bản tính thành tựu, trí tuệ bổn tôn hay là tự tính tâm đều được thấy rõ qua thiền định. Giáo lý Dzogchen không phân biệt các giai đoạn nào mà chỉ nêu rõ bản chất của trạng thái toàn thiện vô cấu nhiễm, nó giống như cách thức vận hành của một vũ trụ, các từ trường từ các hành tinh nối tiếp theo một chiều không gian cố định, bởi bản chất của vũ trụ là bao la cho nên Đại Toàn Thiện chính là nhắc đến cái hiện hữu từ tánh giác bổn nhiên, cái tâm từ buổi ban sơ đã hiện hữu một cách toàn thiện, giống như việc xung quanh Mặt trời duy chỉ có Trái đất là có sự sống.
Tôn ảnh: Đức Ejakati, bậc bảo hộ Mật Pháp
Giáo lý Đại Toàn Thiện không cho cái biết như là một cái gì đó được nắm bắt, mọi thứ đều không gìn giữ duy trì hay nắm mắt, các trạng thái tự nhiên của Tánh Giác Bổn Nhiên này vô cùng thanh tịnh, chân thật rốt ráo mà không hề có sự phân biệt, Năm Phật – Ba thân – trí tuệ bản nguyên đều không có cái gì là sai biệt, các sự thật trần trụi mà Đại Toàn Thiện đem đến một trí tuệ Viên mãn.
Có 2 nguyên lý được nhắc đến như giai đoạn trong Đại Toàn Thiện đó là Lập tức và Tối hậu.
Nếu duy trì trạng thái Lập tức là sự thấy rõ về bản chất của thiền định trong thị kiến, sự hiểu biết thông qua cái thấy lần nữa làm rõ sự thật tuyệt đối của bản tâm, những đức hạnh hay thành tựu các thần thông lúc này hiển lộ, các đặc tính của tâm đều trở nên thanh tịnh bởi trí tuệ bổn nguyên, duy trì một trạng thái tĩnh giác viên mãn.
Trạng thái tối hậu được xem như là quả của việc lìa khỏi cái thấy hay thị kiến, mọi sự đều trở nên tự nhiên mà không có bất kỳ sự cố gắng thực hành nào, những kinh nghiệm phương tiện và trí tuệ là nền tảng của bổn nguyên tánh giác, thị kiến rõ ràng không ô nhiễm hay cố gắng nhớ nghĩ tưởng nên, bởi vì Đại Toàn Thiện thâm sâu và tuyệt vời cho nên đây có thể gọi là Giáo lý Mẹ Của Tam Tạng Thánh điển, trong khi thực hành tánh không mà sự hiện hữu của ít nhất một niệm đều chỉ là huyễn ảo, các nguyên tố tâm được nhận thức rõ ràng tỉ mỉ bởi sự thật sáng tỏ.
_______________________________________
H.H 17th Kadham Dongchen Rinpoche