
Tôn ảnh: Đức Bồ Tát thập nhất diện (Avalokiteśvara Bodhisattva)
Phật giáo Mật Tông không phát triển nở rộ từ trước mà chỉ mới đây thôi, đặc biệt là từ khi His Holiness 17th Kadam Kyabje Dongchen Chotrul Rinpoche trở về Việt Nam sau khi được tấn phong.
Khi đến với con đường tu hành, hành giả quy y Phật, Pháp, Tăng. Đối với các hành giả Bắc tông quy y Phật (10 phương chư Phật) những bậc giác ngộ đã nhập niết bàn. Hành giả quy y Pháp là quy y những lời dạy của Đức Phật lại, có vô lượng Pháp (nhưng hiện nay Pháp giả từ Trung Quốc tràn về rất nhiều như Kinh Vu Lan, Đức Phật không hề giảng về kinh đó). Hành giả quy y Tăng, trước tiên nên hiểu 4 vị Tỳ kheo là một Tiểu tăng, 8 Tỳ kheo là một Trung tăng, 20 Tỳ kheo là một Đại tăng. Trong Kim Cương Thừa còn có thêm việc quy y Kim Cương Thượng Sư, vị này chính là người chịu trách nhiệm dạy dỗ học trò.
Các Phái Mật Tông thiên đình kết hợp giữa Phật giáo Thái Lan và Tây Tạng, dùng bùa ngải và bùa chú để luyện, những người tu như vậy chỉ toàn là tà ma ngoại đạo chứ không chứng đắc bất kì điều gì. Nhưng trong Mật Tông chỉ có Đạo Sư mới có thể giúp hành giả tu tập thành tựu. Vì vậy những hành giả ở Việt Nam thời điểm hiện tại thường bị dẫn dắt bởi những người thầy thường được truyền thông ca tụng và sự hiện diện trên các phương tiện thông tin rất nhiều. Nhưng với Mật Thừa, việc gặp được vị Đạo Sư đã khó thì việc hành giả tu tập còn khó hơn nữa. Đạo Sư thử thách lòng tin của học trò khá là nhiều và thường khi người hành giả phát khởi lòng sùng mộ tới giáo pháp của Đức Phật, nhân duyên đưa đến việc trò đi tìm thầy hay thầy tìm thấy trò.
Tu là để thoát khổ nhưng tu thế nào để thoát khổ, tu ra sao để thoát khổ? Có rất nhiều pháp môn tu hành, thời Đức Thích Ca tại thế thì chưa có việc này nhưng sau thời đó thì pháp môn vô lượng. Từ thế kỷ thứ nhất, khi tổ Long Thọ đưa kinh ra thế giới đã chia làm Tiểu thừa (Phía Nam) và Đại thừa (Phía Bắc).
Trong thời kỳ ngài truyền về đây, Mật Thừa vẫn chưa hiển lộ rõ ràng mà trộn lẫn cho đến thời kì Nalanda, thực sự Mật Thừa đã phát triển mạnh mẽ và đến thời của Đức Atisha thì thật sự hưng thịnh. Mật Thừa dạy hành giả cầu khẩn tới vị bổn sư gốc, hay gọi là Đạo Sư.
Kinh Hoa Nghiêm có ghi 4 câu thơ của “Khai Kệ Kinh” của Võ Tắc Thiên:
“Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thực nghĩa”, thực chất không mang ý nghĩa gì.
Một bản kinh, lấy ví dụ như Kinh Địa Tạng,: “Ðịa’ là dày chắc – ‘Tạng’ chứa đủ. Cõi nước phương Nam nổi mây thơm. Rưới hương, rưới hoa, hoa vần vũ. Mây xinh, mưa báu số không lường. Lành tốt, trang nghiêm cảnh dị thường. Người, trời bạch Phật: Nhơn gì thế? Phật rằng: Ðịa – Tạng đến Thiên đường! Chư Phật ba đời đồng khen chuộng. Mười phương Bồ Tát chung tin tưởng.” Dù viết rất hay nhưng nếu như không có bậc Thầy giảng giải thì ta cũng không thể hiểu được hàm ý của nó thể hiện điều gì. Tất cả quy về Tâm của mình.
Tu hành liệu có phải là sửa, liệu ta có biết ta sai ở chỗ nào để mà sửa? Tu là để nhận ra bản chất của sự thật. Tâm vốn gì không sai chỉ là vì bị ô nhiễm bởi quá nhiều tạp niệm, hãy thanh lọc tâm bằng cách chuyển hóa nó. Khi hành giả tu một thời gian, trì Lục tự minh chú tức thì tâm chuyển biến, có những đệ tử với tâm kiêu mạn, tự đắc tới khi đối diện với nghiệp lực mới nhận ra, nhân quả đến khi nào không hay và thực ra bản thân họ không là gì cả! Truyền thừa tức là truyền từ thầy sang trò kế tiếp nhau từ đời này qua đời khác vậy nên khi hành giả tìm đến Kim Cương Thừa có rất nhiều hoàn cảnh khác nhau, vì khổ trong đời sống, vì cái nghèo quẩn quanh, cầu khẩn tới Đạo Sư những pháp tu để trở nên giàu có nhưng thời gian qua đi họ không giữ được sự kiên trì và bỏ bê việc hành trì, khi hết phước thì họ lập tức bị cuốn vào vòng luẩn quẩn của cái nghèo. Ông bà ta đã dạy: “Có Đức mặc sức hưởng”, vậy khi Đạo Sư cho hành giả phương thức tích công đức thì sao ta lại từ bỏ nó?
Người tu cần có chánh kiến, giữ tâm hướng về giáo lý của Đức Phật. Có ba cách để khai thị: qua cái thấy, qua cái nghe, qua hành động. Với những hành giả Mật Tông tu ở giai đoạn đầu, có một điều kiện mà vị nào cũng cần ghi nhớ “Không thầy đố mày làm nên” coi vị Thầy là cội nguồn của an lạc và mọi sự tốt lành để giúp hành giả đi đến đích.
Nếu hành giả để ý có thể thấy trong pháp tu Ngondro chủ yếu nhắc tới bậc Đạo Sư, vị Thầy của hành giả bởi đó là người trực tiếp truyền lại giáo lý và sự gia trì từ Chư Bổn Tôn. Nếu không có Đạo Sư, dù các Bổn Tôn từ bi cách mấy cũng khó lòng có thể giúp đỡ chúng sinh được. Hành giả quán tưởng về Đạo Sư là để nhận lực gia trì từ Ngài, gọi là sự truyền thừa trực tiếp từ thầy đến trò. Đạo Sư là Phật, là Pháp, là Tăng. Nếu không có Đạo Sư thì hành giả không thể hiểu Tam Tạng là gì, Phật Pháp là gì, sẽ không thể phân biệt được đâu là thánh hay phàm.
Thực hành bất cứ pháp tu hay trì chú nào đều phải có Đạo Sư trao truyền và có nghi quỹ, ví như Lục Tự Đại Minh Chú, để hiểu nghĩa thâm sâu của câu chú và hàm ý mà nó chứa đựng cũng cần có con đường tu, có chánh pháp. Cho nên, chẳng đâu cao thượng hơn bậc Thầy, chẳng đâu quan trọng hơn bậc Thầy, tụng trăm ngàn quyển kinh cũng không bằng một lạy với vị Thầy, làm trăm ngàn việc phước không bằng một lần nghĩ tưởng đến Thầy bằng lòng sùng mộ.
Hành giả dù giàu hay nghèo thì đều có thể tu tập. Khi xưa Đại thành tựu giả Dromtonpa để được nhận sự truyền dạy của Tổ Atisha, Ngài cũng phải đi khất thực đem những thứ ngon lành nhất về dâng cho vị Thầy của mình, Ngài chỉ dám ăn bơ thừa từ ngọn đèn bơ mà Ngài dùng để cúng Đức Atisha, đó cũng gọi là cúng dường. Nếu như không thuận lợi trong cuộc sống, hành giả hãy hướng tâm về Đạo Sư, mọi việc tự khắc thuận. Đó là pháp mạch của truyền thừa của Phật giáo. Một Đạo Sư không thể là phàm phu, đó là những vị tái sinh, nhưng các vị cũng phải trải qua một thời gian rất dài để tu hành. Đạo Sư của Dòng Truyền Kadampa Cổ là vị kế thừa giáo lý của Đức Phật. Có rất nhiều góc khuất trong các tôn giáo mới, và dường như người đứng đầu thích làm giáo chủ hơn là muốn trở thành một vị giác ngộ. Nhưng với Dòng truyền thừa Kadampa cổ, đây là truyền thừa mang giáo lý của Đức Thích Ca lưu giữ và truyền lại nối tiếp liên tục qua thời gian, thực chứng của Đạo Sư đều phải trải qua quá trình rèn luyện gian khổ.
Trong Mật điển có ghi: “Dù con có cúng dường trăm ngàn Bổn Tôn, thì cũng không bằng một giây phút con nghĩ tưởng đến Thầy, công đức này là vô lượng”. Khi hành giả nghĩ đến Đạo Sư là đã nhận được tất cả các thực hành của Đạo Sư, khi hành giả sùng mộ tới Đạo Sư tức là đang sùng một tới 10 phương chư phật vì vị Đạo Sư ấy cũng đã từng phải làm những việc ấy như hành giả.
Trong Mật thừa, Đạo Sư chính là vị Phật của hành giả. Thời gian đầu khi tu hành, các hành giả sẽ còn vướng mắc bởi rất nhiều thứ trong tâm, mấu chốt của việc này chính là xuất phát từ Vô Minh. Bản chất của Vô Minh tạo nên tất cả khổ não. Vì Vô Minh nên không biết rằng sát sinh sẽ đoản thọ, vì Vô Minh nên nghĩ rằng cứ tích trữ của cải sẽ nhanh giàu nhưng khi bỗng nhiên mất tất cả mới nhận ra tất cả là do ta cần tạo phước nhiều hơn nữa. Ai cũng sợ nghèo đói, vậy muốn thoát nghèo nên tu tập. Khi hướng về Đạo Sư hãy hướng tâm về Ngài bằng cách khởi lòng sùng kính. Nếu hành giả hiểu và thực hành, khi ấy Phước báu tự tăng trưởng.
~ His Holiness 17th Kadam Kyabje Dongchen Chotrul Rinpoche ~
Trích bài giảng ngày 16.06.2024