
Khi nói đến thiền, phần đa mọi người đều cho rằng phải ngồi mới gọi là thiền, và gắn theo sau là những huyền bí, thần thông đủ kiểu.
Trong bài viết này, tôi sẽ định nghĩa các phương pháp thiền thuộc Phật giáo. Tuy nhiên, trong bài này, tôi chỉ nêu ra đại ý và không nêu phương pháp thực hành:
1/ Thiền định – thiền minh sát (Thiền nguyên thuỷ):
Thiền định còn được gọi là thiền vắng lặng (samadha), nhằm giúp hành giả an trú tâm trong một đề mục, gom tâm lại khắc chế vọng tưởng phiền não (Thiền đá đè cỏ).
Thiền minh sát còn gọi là tứ niệm xứ ( thân – thọ – tâm – pháp ), nhằm giúp hành giả quan sát các niệm xứ thông qua vận dụng chánh niệm có được từ tu tập định, dùng chánh kiến và chánh tư duy quan sát các đối tượng thuộc niệm xứ, để vén bức màn vô minh tục đế hiển lộ chân đế, phát sanh trí tuệ, vượt ra khỏi lục đạo đạt niết bàn tịch tịnh.
2/ Thiền đốn ngộ (Đại thừa thiền):
Đối tượng chủ yếu của thiền đốn ngộ là tâm (trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật – chỉ rõ bản tâm, thấy tánh là Phật), nhằm giúp hành giả thấy rõ bản chất tâm là như như, chẳng cấu nhiễm, chẳng cần tìm giác ngộ nơi đâu mà ngay tâm này đã là giác ngộ, như câu đối của Lục tổ đã nói lên rõ tông chỉ là đốn ngộ: “Thân không phải bồ đề, tâm không phải gương sáng, từ xưa chẳng cấu nhiễm, cần gì phải dọn lau”. Tông chỉ của đốn ngộ là chỉ thẳng vào tánh giác của người hành giả. Hạn chế của phương pháp này là người hạ căn thường không thể lãnh hội, như các tác phong của chư thiền sư Đại thừa thường dị thường, không dùng lời để nói mà dùng hành động để kích thích chánh tư duy dập tan những suy luận của thế thường, như Bồ Đề Đạt Ma tổ sư có dạy : “Phản quang tự kỷ, giáo ngoại biệt truyền trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” , tức là “Quay lại bên trong, vượt ngoài giáo điển lí luận, chỉ rõ tâm này, thấy tánh là Phật”. Đại thừa dụng phần cốt lỗi của thừa căn bản là tâm rồi phát triển thêm về phần phá chấp, như Thanh văn vẫn chấp có pháp chân đế, niết bàn….thì Đại thừa dụng đến vô ngã tuyệt đối là nền tảng của tánh không bát nhã.
3/ Kim cương thừa thiền (Du già thiền):
Chia thành 3 nhóm :
- Tam mật tương ứng :
Là trì tụng minh chú và kết hợp quán tưởng bổn tôn rồi hoà nhập vào cùng bổn tôn làm một.
- Thiền kinh mạch :
Trên thân thể gồm có 7 kinh mạch chính chạy trên kênh trung ương, và khí đi theo 2 kênh phụ trái phải đại diện mặt trời mặt trăng ( âm và dương ), khai thông các kinh mạch nhằm làm chủ khí và tâm, thông qua kinh mạch để đạt các trạng thái của định. Theo giáo lí Mật thừa, mandala bên ngoài tương ứng với mandala bên trong, làm chủ các khí mạch là làm chủ được tâm (ở đây chỉ nêu ra phần nào của đại ý chứ không thể nêu rõ ra).
Kinh mạch chia ra thành các phương pháp thực hành khác nhau, như việc tu tập Tsalung, Tummo đều yêu cầu phải qua giai đoạn của kinh mạch (luyện tâm và khí), 2 thành phần chính của việc tu tập.
- Thiền đại viên mãn :
Đây là một phương pháp đặc biệt, phương pháp của Thiền tông là giai đoạn đầu của đại viên mãn, tuy nhiên Thiền tông chỉ dừng ở giai đoạn đầu.
Trong phương pháp này, hành giả phải hoàn thành các phương pháp thiền cơ bản, sau đó thể nhập tánh không, như việc thiền bổn tôn hành giả phải hoá tán bổn tôn thành ánh sáng rồi thể nhập vào trạng thái của tánh không (vì đây là pháp mật truyền, thuộc phần chuyên sâu, nên tôi chỉ nêu đại ý). Chủ yếu trong giai đoạn này là tánh không, hành giả bằng các pháp du già (từng dòng truyền thừa có phương pháp thực hành khác biệt) vượt khỏi các trạng thái thông thường của đại lạc, đạt đến tánh không, sống trong trạng thái tánh không trong mọi lúc.
Tánh không là trạng thái thiền định rỗng rang không bám chấp (tánh không thường bị hiểu sai lệch là không có thứ gì, tánh không được hiểu đúng là bản chất của mọi thứ đều là như như). Ở giai đoạn đầu, hành giả thực hành quán bổn tôn, rồi hoà bổn tôn thành một cùng hành giả, sau đó hành giả và bổn tôn hoá thành ánh sáng rồi hòa vào trong trạng thái trống rỗng của tâm. Trước khi bước vào phương pháp này, hành giả thường nhận được sự chỉ dạy về tánh không.
Tóm lại, trong giai đoạn của thiền đại viên mãn, hành giả không chỉ trong thiền định mà ngay trong đời sống giữ trạng thái tánh không trong tất cả các hoạt động, lúc này hành giả sống trọn vẹn với tánh không bát nhã.
Trên đây là phần đại ý về các phương pháp thiền Phật giáo từ cơ bản đến Đại thừa, tuy nhiên không phải phương pháp thực hành.
~H.H 17th Kadham Dongchen Rinpoche~