
Tôn ảnh: Lama Guru Jetsun Rinpoche
Mặc dù thiền tĩnh lặng (thiền chỉ – samadhi) chỉ giúp tâm an trú trong thiền, nhưng nó lại là trợ thủ đắc lực cho việc thiền quán.
Có những sai lầm cho rằng thiền có trong phương pháp tu của ngoại đạo, nhưng sự thực thiền là do chính Đức Phật khám phá ra. Theo lịch sử thì 4 tầng định không vô xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng xứ, thuộc về định, riêng sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền là do Đức Phật khám phá, chúng ta thường gọi chung là thiền định, nhưng thực tế định là trạng thái thiền luôn có tâm xả xuất hiện, trong định lại tâm bám chấp, như việc hành giả từ sơ thiền lên nhị thiền thì phải xả ly tâm bám chấp trạng thái sơ thiền. Việc này liên quan thế nào đến thiền quán? Điểm trọng yếu của thiền quán là tâm xả ly, dù là trạng thái gì đi nữa, khi hành giả đạt tứ thiền, tâm tịch tịnh và do chánh kiến hành giả nhận thức nguy hiểm của việc bám chấp, thấy ra trạng thái tứ thiền tuy thanh tịnh, nhưng cũng chỉ tạm thời, hành giả xả ly và dùng chánh kiến – chánh tư duy, quan sát trên 4 niệm xứ, thân – thọ – tâm – pháp. Khi này không bám chấp trên trạng thái của thiền chỉ, hành giả giữ trên chánh niệm, tinh thần cần tỉnh giác, quan sát các niệm xứ, nghĩa là dù thiền hay định thì tâm xả là tâm quyết định việc bước vào thiền quán.
Nhưng Đức Phật không khuyến khích thực hành 4 tầng định (trừ trường hợp những hành giả không đủ chánh niệm cần thực hành thêm định để tăng chánh niệm), vì tâm đã trở nên quá tĩnh lặng sẽ rơi vào trạng thái bám chấp. Mục đích của Phật Giáo là giác ngộ, tất cả phương pháp thực hành chỉ là hỗ trợ cho sự giác ngộ, cũng như nếu biết cách dùng lửa để nấu ăn thì sẽ có món ăn chín, còn không thì sẽ gây hoả hoạn, dù phương pháp tốt thế nào, nhưng không có chánh kiến đầy đủ thì đều rơi vào tà kiến.
~H.H 17th Kadham Dongchen Rinpoche~