
Tôn ảnh: Phật Đảnh Tôn Thắng là (Namgyakma)
Trong lịch sử Phật giáo chưa có một vị nào chỉ tụng Kinh niệm Phật mà đắc quả nhưng cũng chưa có người nào không nương trên Kinh văn mà có thể thành Phật được: “Y Kinh giảng nghĩa oan Tam thế Phật, Lìa Kinh giảng nghĩa đồng như ma thuyết” chính là bao hàm ý nghĩa đó. Chính vì vậy, chúng ta cần có cách hiểu đúng đắn về việc tụng kinh, cầu trường thọ và hồi hướng cho thân quyến.
Thứ nhất, về việc cầu trường thọ, chân lý của Đức Phật cho chúng ta nhận ra rằng tất cả mọi sự vật trên thế gian này đều chỉ là giả tạm, bất kì ai cũng phải trải qua Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Đức Phật nhận thấy rõ luân hồi của việc này nên mới phải tu để tìm ra con đường giải thoát của việc đọa lạc trong luân hồi. Đức Phật từng dạy các Tỳ kheo rằng: “Này các Tỳ kheo, Như Lai dạy rằng mắt này là giả, tai này là giả, tứ chi này là giả, những thứ ấy thuộc về ngũ uẩn (thất, thọ, tưởng, hành, thức), tất cả chỉ là giả”. Hiện nay, thay vì quan sát thật tướng của các Pháp, thì vẫn có một số người “đi ngược lại với lời dạy Đức Thế Tôn”, tin vào việc thân này là thật, thất thọ ngũ hành này là thật nên nghĩ rằng phải tìm cách làm sao để trường thọ. Điều này đã đi nghịch lại lời dạy Đức Thế Tôn trong Mật giới. Khi hành giả Mật thừa đã thọ Bồ tát giới thì phải giữ trọn thệ nguyện với những giới mình đã thọ. Hành giả chớ nên đi cầu pháp từ bên ngoài khi đã quy y một Kim Cương Sư. Chúng ta cần hiểu rằng, pháp Phóng sinh mới là pháp để tăng trưởng tuổi thọ, không còn phương tiện nào tốt hơn, nếu cầu xin sự trường thọ tức là hành giả đang đi ngược lại với lời dạy của Đức Phật. Xưa kia, Đức Phật chỉ dạy trong kinh văn về sự giác ngộ chứ không dạy về sự trường thọ, bởi ngài biết đời này, mỗi chúng sinh mỗi nghiệp quả khác nhau. Việc hồi hướng xin trường thọ cho chúng sinh còn tùy thuộc vào việc chúng sinh đã từng tạo bao nghiệp thiện ác, tùy vào việc xem cán cân nhân quả ra sao bởi nghiệp thức ta đã gây thì không ai có thể gánh thay được. Nếu vì báo hiếu cha mẹ thì pháp đại hiếu là xuất gia, khoác tam y, giữ phẩm hạnh tỳ kheo mới trọn quả vị bậc thánh (Riêng Yogi đặc biệt hơn vì đó là giới của Bồ tát, tu tập để đạt năng lực của một Bồ tát). Chính vì vậy, hành giả khi tu phải có chánh kiến, chánh tư duy, ngoài học pháp từ Đạo sư thì không tầm pháp bên ngoài, vì nếu làm trái điều này tức là phạm samaya trong Mật thừa.
Có một câu chuyện kể rằng, xưa kia có một vị tên là Channa, ông là người thân cận với thái tử Tất Đạt Đa từ khi còn nhỏ, nên vị này rất ngạo mạn. Bởi vì thân cận từ nhỏ với Thái tử, nên trong Tăng đoàn tỏ ra rất ngạo mạn, bất cứ các vị Thánh tăng, trưởng lão, sư trưởng dạy dỗ đều không nghe. Trước khi Đức Thích Ca nhập Niết Bàn, Ngài đã dặn Ngài A Nan hãy “biệt chú” người này, tức là tách biệt khỏi Tăng đoàn, không ai được phép giảng pháp cho vị này và bị cô lập tới lúc nhận ra lỗi lầm của mình, Channa đã tới cầu xin ngài A Nan dạy pháp. Ngài A Nan nói rằng: “Này hỡi Channa, thân này không có thật, mọi thứ do nhân duyên mà trụ, hết duyên thì hoại”. Ngoài kia, có rất nhiều người tìm kiếm phương cách để mong thoát khỏi cái chết nhưng không ai tránh được nhân quả. Việc đầu tiên mà người tu hành phải hiểu rằng cái chết là thứ đầu tiên ta trải qua, thân này cũng chỉ là giả tạm. Nếu chưa hiểu được điều này thì tức là chưa hiểu được pháp là gì. Trong kinh Địa Tạng có ghi, người sống làm bảy phần công đức thì người thân quyến thuộc đã chết được hưởng một phần công đức trong đó, nương nhờ việc ấy mà được vãng sinh. Pháp tu trường thọ không phải không có trong Mật thừa nhưng nếu ai hiểu được nghĩa lý rằng sự bất tử không nằm trong vật chất trên thế gian bởi có sinh thì có hoại, nếu chúng ta sát sinh thì vẫn còn đọa lạc huống chi nếu phạm ngũ nghịch tội thì còn khó để cầu trường thọ hơn thế.
Thêm nữa, những hành giả đã thọ nhận pháp khí (như y áo, khuyên tai, chuông chày, tràng hạt v.v…) mà không biết tôn trọng giá trị của Pháp bảo thì không thể đạt được thành tựu trong tu hành. Người tu Mật thừa nhanh chứng đắc thành tựu hơn vì họ không đi qua các bước thông thường trong quá trình tu (tín, giải, hành, chứng) mà bước thẳng vào giai đoạn tín, hành, chứng thông qua sự khai thị của Kim Cương Sư. Chính vì thế nên việc tuân theo giới luật được đề cao. Trong như trường hợp ta trình câu hỏi tới Kim Cương Sư mà pháp ấy chưa được trả lời ngay thì cần hiểu ta chưa đủ trí tuệ để hiểu được chân lý cao cấp của các pháp tu (trường thọ là pháp liên quan đến Tối thượng pháp). Thường những câu hỏi quá cao siêu thì sẽ chưa có được câu trả lời, hãy nghiền ngẫm giới luật kĩ càng bởi đây mới là điều quan trọng tránh cho bản thân phạm sai lầm, đôi khi chỉ vì sự qua loa trong tu tập mà ta hủy hoại phước báu của bản thân vì phá vỡ thệ nguyện của Kim Cương Sư. Hãy xem câu chuyện về Đức Milarepa, ngài đã trải qua biết bao sóng gió khổ cực để nhận được sự gia trì và quán đảnh giáo pháp từ Đức Marpa. Chính bởi sự việc thọ nhận những giá trị quý báu từ pháp nên những pháp tu cao cấp như trường thọ sẽ không thể truyền giảng dễ dàng với bất kỳ ai.
Thứ hai, về việc hồi hướng, đây là một cách để hành giả chuyển hóa tâm. Ví dụ hồi hướng cho thân quyến hiểu được Phật pháp thì tới đúng thời điểm, đủ nhân duyên, thân quyến sẽ hiểu được Phật pháp mà tu tập. Hành giả đã thọ giới Bồ tát và tôn kính Kim Cương Sư thì tại sao lại mất chánh niệm và đi tin theo những chỉ giáo sai lệch từ một người khác? Pháp đưa tới cho đại chúng không đơn thuần là vài ba câu nói mà phải chứa đựng hết những gì cần nói, bởi nói sai có thể khiến người khác đọa lạc.
Việc hồi hướng từ công đức của người đang tu hành, chỉ một phần bảy những việc có thể làm để giúp thân quyến thọ mạng nhưng chỉ cần chừng ấy thôi cũng đủ để thân quyến đã chết được vãng sinh lên các cảnh giới cao hơn. Kinh Địa Ngục có ghi “vào thời Đức Phật Định Tự Tại Vương Như Lai (một danh hiệu của Đức Địa Tạng Vương – Ksitigarbha), có một Bà La Môn rất tín tâm vào Phật pháp nhưng mẹ của bà ấy lại là một người rất tà kiến, ưa ăn thịt cá chạch con nên sau khi chết bà ta đọa vào địa ngục. Vị Bà La Môn kia hàng ngày đến đảnh lễ trước tháp của Đức Định Tự tại Vương Như Lai xin cho bà mẹ được thoát khỏi địa ngục, một ngày vị Bà La Môn kia thầy ánh hào quang tỏa ra từ tượng của Đức Định tự Tại Vương, ngài nói vị Bà La Môn hãy chuyên chú niệm danh hiệu của ngài, ngài sẽ cho người mẹ gặp lại con. Sau đó có một vị thánh nữ tới tìm ba biển nghiệp để gặp Biển Vương hỏi về mẹ của mình, vị Biển Vương trả lời rằng mẹ của bà đã được vãng sinh từ mấy ngày trước về cõi Đao Lợi Thiên cùng với các chúng sinh khác trong ngày hôm đó nhờ vào công đức từ con gái bà (đúc chuông, xây tháp chùa, …). Biển Vương nói rằng trong ba biển nghiệp đều là địa ngục, vô vàn địa ngục nhỏ trong địa ngục lớn, hằng ha các địa ngục bao quanh nhau, tương ứng với những nghiệp ác mà con người gây tạo. Vậy nên cứu một người ra khỏi địa ngục còn khó thì nói gì đến việc cầu cho họ được trường thọ. Thực hành hiếu đạo phải đúng cách, đầu tiên giải thoát mình sau là giải thoát người, mình chưa giải thoát đặng người sao giải thoát được? Chính vì lẽ đó, người tu Mật thừa cần có chánh kiến, chánh tư duy, biết nương theo pháp mà Kim Cương Sư trao truyền chính bởi sự thành tựu từ vị thầy trong Mật thừa, bởi chỉ có Kim Cương Sư mới là vị đã giác ngộ và có thể khai thị Phật tri kiến để biết mình đi đúng hay sai đường. Ta có đọa lạc thì bản thân ta là người chịu khổ, giáo lý từ Kim Cương Sư là duy nhất trong Mật thừa. Có thể hồi hướng sau khi phóng sinh nhưng lợi lạc ở một mức nhất định vì nếu những thân quyến không tu tập. Vì mọi công sức bỏ ra phải cân xứng với công đức mình có.
Để gặp được một vị giác ngộ, người thầy của mình trong đời quả thật không dễ. Trong thời gian chờ đợi hãy an trú trong thực tại, tu tập những pháp tu mình đã được thọ nhận. Thành tựu của bậc Kim Cương Sư sẽ gia trì giúp cho hành giả đi tới gần những mong muốn của mình nhưng quan trọng, khi nương vào giáo lý từ Kim Cương Sư chính là cánh cửa để đưa đến sự xả ly, giải thoát và giác ngộ. Chúng sinh cha mẹ thì rất nhiều đời kiếp không chỉ ở đời này nên ta đâu có thể cứu được hết những người đó. Thay vì cầu xin trường thọ hãy cầu xin được giác ngộ thoát tam đồ khổ thì cách này còn cứu được cha mẹ, nếu không có chánh trí thì mọi pháp tu trường thọ đều vô ích, nếu không buông được bản ngã thì cũng không thể đạt được sự giác ngộ nào.
Ngày nay, các hành giả trẻ nên biết rằng đạt được phước tu hành đời này như “thấy ngọc trong bùn”, nó rất đáng quý, nếu tìm được điểm nương tựa thì bản thân mình phải như thế nào để cứng đánh với điều ấy? Hãy học cách khiêm cung. Những hành giả đã từng được Kim Cương Sư giúp đỡ hãy nhớ: lời pháp giác ngộ cũng đắng như thuốc, bởi nó tiêu trừ si mê và tam độc, Hãy quay về với sự nương tựa vào Kim Cương Sư. Pháp không dễ dàng ban ra được, bởi đây là truyền thống Mật thừa. Mật thừa hay Kim Cương Thừa là thừa quý giá như kim cương cũng bởi pháp của thừa ấy khó tầm cầu, pháp có samaya nghiêm ngặt nhưng vì nó khó nên mới là pháp đáng trân quý, hãy chứng tỏ mình là người xứng đáng được nhận pháp ấy.
“Người thông minh có trí
Thân cận bậc tri thức
Tham hiểu được giáo lý
Như lưỡi với vị canh
Người ngu si thiếu trí
Thân cận bậc tri thức
Không tham học giáo lý
Như muỗng với vị canh”
Hành giả Du già tuân theo các giới luật, chắc chắn chứng đắc rất nhiều các thành tựu. Khi đã gần kề Bậc Kim Cương Sư thì hãy tham cầu Phật pháp, đừng bỏ qua cơ hội giác ngộ trở thành Phật.
~H.H 17th Kadam Kyabje Dongchen Chotrul Rinpoche~
(Trích bài giảng ngày 15.06.2025)