
Tôn ảnh: Đức Kim Cương Du Gìa Thánh Nữ và Đức Heruka Chakrasamvara
Người theo Tịnh Độ Tông, họ quan niệm rằng niệm Phật được vãng sinh. Đó là quan điểm sai lầm. Pháp môn nào cũng đưa con người tới một mục đích tối thượng, đó là Niết Bàn nhưng con đường của pháp môn Tịnh Độ sẽ dài hơn tức là. Với Mật Tông là con đường ngắn nhất giúp con người đạt đến được mong cầu thành tựu ngay trong đời hiện tại còn với Tịnh Độ Tông, người tu phát nguyện về thế giới Tây Phương Cực Lạc rồi mới tu tiếp để thành tựu, nhưng lại chỉ trích các pháp môn khác. Đây là một nghịch lý mà chúng ta vẫn thường hay thấy.
Người tu Pháp Hoa cho rằng đó là pháp môn tối thượng nhất. Trong kệ tán tụng Pháp Hoa Kinh có viết:
“Hơn sáu muôn lời thành bảy cuốn,
Rộng chứa đựng vô biên nghĩa mầu,
Trong cổ, nước cam lồ rịn nhuận,
Trong miệng, chất đề hồ nhỏ mát,
Bên răng, ngọc trắng tuôn xá lợi,
Trên lưỡi, sen hồng phóng hào quang,
Dầu cho, tạo tội hơn núi cả,
Chẳng nhọc, Diệu Pháp vài ba hàng”
Ý nghĩa của đoạn kệ trên là tụng kinh này “vài ba hàng” sẽ không bị đọa lạc cũng chưa phải là đúng, đây chỉ là tri kiến sai lầm. Tụng kinh không thể đưa đến giải thoát hay giác ngộ. Thời Đức Như Lai tại thế, pháp mà ngài thuyết ra để thực hành, pháp được kết tập lại sau khi đức Phật nhập Niết Bàn trở thành kinh văn để ngày nay chúng ta y cứ trên đó mà thực hành chứ không phải là những bản văn nương trên đó để tụng niệm và cầu nguyện. Điều này đưa chúng ta đi lạc hướng!
Ở các dòng phái truyền thừa trong Mật thừa sẽ rất khác với các dòng phái của Tịnh Độ hay Hiển thừa, chuyên về các dòng thiền (Dòng thiền nhị quán, Dòng thiền Trúc Lâm, Dòng thiền Lâm Tế, ….) hầu hết tâm ấn và tâm pháp cũng không còn chỉ còn lại ngoại tướng. Mật thừa chú trọng vào sự kết nối giữa thầy và trò, Cái quan trọng nhất là thiền định, được trao truyền bởi Đức Kim Cương sư, người kế thừa giáo pháp thanh tịnh của một dòng truyền thừa. Bởi vị thầy phải chịu trách nhiệm cho việc tránh để học trò đọa lạc, sợi dây tâm linh ấy là samaya hay còn gọi là Mật giới.
Trong Mật giới có 14 điều giới và một trong số đó là giới không được xem thường người nữ, vì đây là đặc tính của trí tuệ. Khi tâm hành giả còn đau khổ vướng mắc là khi thiếu đi sự trao truyền hay gọi là khai thị từ một bậc Đạo sư. Ví dụ: Lục tự đại minh chú, khi hành giả nhận được pháp này và sự gia trì của Đạo sư đi kèm thì công năng của nó mới thực sự tăng lên gấp bội lần, nhờ đó thành tựu sẽ cao hơn. Mật thừa có những đặc điểm riêng là sẽ chỉ được trao truyền với một số vị có đại nhân duyên để khai thị hội nhập Phật tri kiến.
Mỗi hành giả khi bước chân vào Mật thừa đều được dạy rằng việc đầu tiên là nương tựa vào một bậc Đạo sư, kế đó dâng cúng dường lên một bậc Đạo sư của mình. Sự cúng dường cần được phân biệt rõ để tránh bị hiểu lầm. Hãy thử suy nghĩ với giáo pháp truyền thừa, mỗi dòng truyền có hàng ngàn vị tăng nhưng Đạo sư thì có rất ít, sự cúng dường chính là sự xả ly của hành giả. Ngay bậc thầy khai thị tri kiến đi vào con đường tu giải thoát thấy được chân lý cao thượng mà hành giả còn tiếc không dám cúng thì những người như vậy không thể đạt được thành tựu. Sự cúng dường biểu thị cho giáo pháp là chân quý, chứng tỏ bản thân hành giả dám chấp nhận bỏ tất cả những thứ ta coi là quan trọng chỉ để cầu pháp.
Có một câu chuyện về Đức Marpa xưa kia, khi ngài làm một lễ quán đảnh, các đệ tử của Ngài có mang tới tất cả những tài sản quý giá của họ. Có một vị Đại đệ tử cất giữ một con vật được coi là quý giá với người đó mà không mang theo, đó là một con dê. Đức Marpa yêu cầu Đại đệ tử này quay về lấy con dê đó để mang tới cúng dường cho ngài để cầu pháp. Việc này là sự thử lòng đối với vị đệ tử để xem giữa giáo pháp và những của cải thế gian, thứ gì với họ mới thực sự là trân quý.
Giáo pháp ngày nay xuất hiện trên các kênh truyền thông một cách tràn lan nhưng thật khó để xác thực giáo pháp đó từ đâu ra, được viết ra bởi vị nào và người đó có thành tựu như thế nào? Có người nghĩ rằng đọc một quyển kinh, tụng niệm vài thần chú là đủ Kì thực muốn đi vào tri kiến của Đức Như Lai không hề dễ. Điều quan trọng là người tu hành tiếp cận giáo pháp bằng cách nào?
Sự khác biệt lớn nhất giữa các pháp môn tu hành là sự truyền thừa giữa thầy và trò hay còn gọi là việc thiền định giữa thầy và trò mới là điều quan trọng. Thiền định trong Sadhana chỉ được truyền cho những học trò có lòng kiên định vững chắc sau khi vượt qua sự thử thách của vị thầy.
Trong thời đại hiện nay, có rất nhiều vị thầy ở nước ngoài và ở trong nước dạy về giáo pháp nhưng mỗi vị có một cách khác nhau, người tu hành hay có thói quen phân biệt đúng sai giữa các pháp nhưng theo Thầy, pháp nào cũng là đúng chỉ sai ở chỗ người thực hành hiểu sai về nó,từ đó dẫn đến việc hành trì sai. Qua đó, hành giả nên nương tựa vào Đạo sư được chứng nhận từ một Dòng truyền thừa (chứ không phải tự xưng).
Những ý kiến cho rằng truyền thừa Kadampa cổ đã biến mất là hoàn toàn không có căn cứ. Điều này không ai có thể đưa ra được bằng chứng. Vị tổ Tsongkhapa chưa bao giờ lập dòng, hai học trò lớn của Ngài đã tạo lập dòng Gelugpa nhưng từ việc này mà khẳng định Kadampa cổ biến mất là không chính xác. Hiện nay có Kadampa cổ (truyền thống cổ nương theo giáo lý của Đức Atisha) và Tân Kadampa. Các Đạo sư lớn vẫn đang công nhận có hai dòng truyền Kadampa (cổ và mới). Thực tế giáo lý đang được Tân Kadampa giảng dạy cũng là y cứ trên giáo lý của Bồ Đề đạo đăng luận (được viết bởi Tổ Atisha, vị Tổ khai lập ra Dòng truyền thừa Kadampa cổ) về việc nương vào Thầy là quan trọng, đó là niềm tin của hành giả với dòng truyền thừa. Tâm của chúng sinh với giáo pháp sẽ như thế nào thì sẽ được thọ nhận vào trong giáo pháp đó. Niềm tin càng lớn sự gia trì càng mạnh. Tín tâm là quan trọng nhất, để phát triển được điều này, hành giả cũng sẽ đối diện với sự đả kích mạnh mẽ từ phía bên ngoài, nhưng quan trọng rằng lòng trung thành không lay chuyển. Cúng dường vì giáo pháp, chứ không vì điều gì khác mà Đạo sư đem lại.
Trong cuộc sống không vì những điều không tốt mà bỏ qua những điều tốt đẹp. Đạo sư là Người gốc Việt đầu tiên được công nhận, vì thế mà ngài muốn đem giáo pháp và những kiến thức đưa đến giác ngộ thực chứng cho những hành giả nơi đây như một sự tri ân với Tổ quốc. Chỉ có những vị với Bồ Đề Tâm rộng lớn thì mới có thể phát ra những lời nguyện vì lợi lạc của tất cả chúng sinh. Bản thân ai đến và đi với thế giới này cũng sẽ chỉ là hư không.
Tại Việt Nam, Mật tông đã xuất hiện từ hơn 2600 năm nhưng đây là lần đầu tiên có giáo lý về Mật tông chính thống nên việc một vị được công nhận là Đạo sư và là hóa thân cao cấp của một Dòng truyền thừa lớn tái sinh tại Việt Nam là điều vinh dự lớn. Việt Nam vốn đã có Phật giáo nhưng trước nay vẫn phải khẩn cầu pháp ở các Đạo sư nước ngoài. Đạo sư Dongchen Rinpoche mong muốn đem những tri kiến lỗi lạc về giúp đỡ và cống hiến cho đất nước nơi mình sinh ra để làm lợi lạc cho chúng sinh. Trên thực tế, Mật thừa đã rất phát triển tại Châu Âu và Châu Mỹ, đã có những vị thầy của Mật tông về Việt Nam truyền pháp nhưng vì khác biệt về ngôn ngữ, nên những hành giả thọ nhận pháp dù tụng đọc cũng không chắc hiểu được ý nghĩa của nó. Do đó, việc một vị Đạo sư là người Việt, nói tiếng Việt và giảng giáo lý bằng tiếng Việt là ân phước lớn cho những hành giả ở đây.
Mật thừa chỉ được giảng dạy cho các vị đã quy y của một dòng truyền thừa, được nhận giáo pháp từ một Đạo sư. Có rất nhiều các vị Rinpoche đã tới Việt Nam nhưng chưa có vị thầy nước ngoài nào chấp nhận vượt qua rào cản ngôn ngữ truyền về Việt Nam, giáo pháp qua một phiên dịch thì nó không thể gọi là giáo pháp thanh tịnh. Sự thành tựu và lợi lạc qua việc truyền dạy từ một Đạo sư người Việt là cái gốc, hành giả học được, nghe được, hiểu được thì mới thấm được triết lý cốt lõi của Mật thừa. Bên cạnh những khó khăn, thì vẫn còn có những thiện tri thức tìm tới cầu học, cũng bởi điều này mà Đạo sư từ bi chấp thuận và tiếp tục hành trình truyền pháp dù còn rất nhiều khó khăn.
Con đường giải thoát Niết Bàn duy nhất là từ thầy trao đến trò, từ những tri kiến thanh tịnh đưa đến giải thoát tối thượng. Niềm tin tới Đạo sư mất đi thì những kho tàng của chân lý cũng sẽ không thể truyền tới hành giả. Chỉ có những người nương tựa vào Đạo sư mới nhận được con đường đúng đắn. Đúng thời điểm thì sự khai thị từ Đạo sư sẽ giúp hành giả tìm thấy con đường dẫn nhập (Bồ Đề Tâm) từ trong tâm thức, được kêu gọi thức tỉnh để trở về với Bổn lai diện mục. Hành giả hãy nương tựa và giáo pháp và chân lý từ Đạo sư, coi việc trì chú là phương tiện, niềm tin là con đường và thực hành là tâm yếu. Con đường đưa tới giác ngộ giải thoát luôn rộng mở với những hành giả xứng đáng vì vậy những ai với niềm tin chưa vững chắc nên xem xét lại tâm của mình!
~H.H 17th Kadam Dongchen Rinpoche~
Trích bài giảng ngày 14.07.2024