
Tôn ảnh: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
“Khi một người nhảy xuống từ một đỉnh núi cao thì họ phải rớt xuống dù có nghĩ là không sao. Cũng thế, nếu tiếp nhận giáo lý lợi lạc từ bậc thầy từ mẫn, bạn sẽ đạt giải thoát dù cứ tưởng là không. Nếu sự thờ kính bậc thầy được thực hiện tốt thì việc ấy sẽ đưa bạn đến giải thoát khỏi sinh tử luân hồi dù bạn cứ nghĩ mình không giải thoát. Nhưng nếu không nương bậc thầy, bạn sẽ không du hành được ngay cả những đạo lộ thấp nhất”. (Pabongkha Rinpoche, Giải thoát trong lòng tay, Tập 1, Ngày thứ 7)
Trong thời kỳ Mạt pháp ngày nay, ai cũng có thể thuyết pháp được. Có những người nghĩ mình đã chứng đạo, nghĩ mình cao hơn Đức Thích Ca. Đó là biểu hiện của Ngũ ấm ma nhập thân. Khi năm thứ sắc, thọ, tưởng, hành, thức không được vận dụng bằng Bát chánh đạo thì sẽ dẫn đến sự ảo tưởng thánh quả. Nhưng ít ai phân biệt được sự chứng ngộ thật sự hay chỉ là phàm phu. Thực tế, những vị đã chứng ngộ thì không bao giờ thuyết pháp online trên các nền tảng mạng xã hội. Tuy nhiên, vẫn có nhiều người đi theo những tà tri kiến này, và bị mê hoặc bởi những lời mà tâm ưa thích nghe, bởi xu hướng hay sự tung hô nổi tiếng. Ngày nay, có những người nghĩ rằng xưng danh Phật có vẻ quá dễ dàng, khi mới chỉ đọc vài câu kinh, quyển sách đã nghĩ mình chứng đạo. Nếu không có truyền giới sư thì dẫu thực hành cả trăm nghìn lần vẫn chỉ là ngoại đạo, không bao giờ chứng đắc. Hãy tránh xa những người như vậy. Ta phải hiểu rằng một bậc thầy chân chính sẽ dạy ta Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Thất giác chi (Bảy yếu tố giác ngộ, bao gồm: Niệm, Trạch pháp, Tinh tấn, Hỷ, Khinh an, Định, và Xả). Đức Phật dạy rằng: giáo pháp nào không có Bát chánh đạo thì giáo pháp đó không có Đệ nhất sa môn, Đệ nhị sa môn, Đệ tam sa môn, Đệ tứ sa môn (tức là tứ thánh quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán).
Trong đời sống hàng ngày, nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt của ta dễ bị chạy theo những thứ dẫn tới đọa lạc. Tất cả những thứ chúng ta hưởng thụ như ăn, uống, ngủ, nghỉ đều tạo là tiêu đi phước của ta mỗi ngày. Ta nên biết rằng, khi quả của nghiệp xảy ra tức là phước ta đã không còn. Việc được gặp và nghe pháp từ Đạo sư là cách Ngài đưa đến cho học trò những tri kiến đúng đắn, tránh đọa lạc vào những cảnh giới xấu. Kim Cương Sư là bậc thầy đã giác ngộ, và để trở thành một Kim Cương Sư không đơn giản, phải trải qua hành trình rèn luyện với Kinh tạng và Mật điển, tu tập các tầng thiền, thực hành trì chú, các cấp bậc tantra, từ Kriya, Charya tới Yoga và Anuttarayoga. Mỗi vị Bổn tôn có một tantra theo từng cấp độ đi kèm.
Trong Mật thừa, ta không thể tự đọc các kinh sách, mật điển, hay trì chú. Mọi nghi quỹ, thần chú đều phải được trao truyền từ Kim Cương Sư. Khi Kim Cương Sư trao truyền quán đảnh, khẩu truyền, Ngài sẽ giảng giải về ý nghĩa của các pháp. Điều quan trọng nhất khi tu Mật thừa là phải hiểu mục đích tối thượng ta để làm gì hay đạt được điều gì. Mật thừa là con đường đi tắt, vì chỉ cần tu một đời cũng đủ thành Phật. Và vì nó là con đường đi tắt nên rất chông gai, phương tiện vượt thoát chính là sự gia trì từ Kim Cương Sư. Đức Phật Thích Ca nhận được pháp và truyền tâm ấn từ chư Phật, Trì Minh Vương, truyền tới các Đạo sư – các Mahasiddhas (Đại thành tựu giả), như Bồ Tát Long Thọ đã xuống Long Cung để lấy được giáo pháp Đại Thừa và truyền bá rộng rãi. Phật Giáo Đại thừa không dạy ta quy y một vị thầy nào, mà việc quy y Tăng, tức là tất cả chư Tăng là thầy. Nhưng vị này gọi là thầy tế độ chứ không phải là Kim Cương Sư. Tại sao trong Mật thừa, các vị thầy được gọi là Kim Cương Sư? Trên thế gian này, không gì quý hơn Kim Cương. Các vị Kim Cương Sư là những vị nhận đầy đủ tâm yếu để tới giác ngộ. Các vị Kim Cương Sư sẽ khai thị, đánh thẳng vào tâm thức của hành giả. Nếu hành giả chỉ yêu thích những điều êm tai, dễ nghe thì khó lòng tu nổi Mật thừa bởi thuốc đắng giã tật, sự thật mất lòng. Ta phải nhận lãnh quả báo nặng nề từ nghiệp lực mạnh mẽ trong quá khứ. Do đó, Kim Cương Sư thường sử dụng nhiều phương tiện để tịnh hóa các nghiệp lực sắp trổ ra. Các vị Kim Cương Sư thường không nói nhiều, mà làm bằng hành động. Sự yêu thương không phải lời lẽ ngọt ngào, mà phải xuất phát từ lời nói đúng đắn và chân lý cao thượng. Con đường tu gian nan, khó khăn, vì để gột rửa những nghiệp lực, tội cấu, ác nghiệp ta đã gây tạo từ vô thỉ kiếp, từ bé đến lúc trưởng thành nên thầy đã từ mẫn chỉ dạy phương cách. Ai cũng nghĩ mình đang đúng, không ai nhìn thấy được nghiệp xấu cho đến khi nó trổ ra mới nhận ra mình đã sai. Nếu ta chưa đắc Thánh thì không thể nhận ra được những sai trái mình đã làm.
“Bạn sẽ tích lũy vô số công đức khi nương tựa bậc thầy. Nếu muốn đạt Phật quả, con phải tích lũy vô số công đức và trí tuệ. Sự tích lũy này không gì bằng cúng dường bậc thầy. Có câu nói: Cúng dường lỗ chân lông của bậc thầy công đức hơn cúng dường chư Phật, Bồ-tát mười phương. Chư Phật, Bồ-tát mười phương sẽ thấy được khi nào người dâng cúng bậc thầy. Nói cách khác, các Mật điển và Luận sớ nói rằng ta sẽ được nhiều lợi ích nếu cúng dường cho thân của bậc thầy dù chỉ bằng ‘lỗ chân lông’, hơn là cúng dường đến mười phương chư Phật.” Bậc hiền trí có nói: “Công đức thực hành Sáu Ba-la-mật trong ngàn kiếp có thể đạt được ngay bằng pháp thờ thầy. Không đáng mừng sao khi bạn được phụng sự thầy?”. Đó là pháp phương tiện. Thay vì chúng ta phải trải qua các Ba-la-mật như Đức Phật Thích Ca đã thực hành, thì giờ chỉ cần nương tựa bậc thầy, hướng tâm đến thầy – một vị thầy chân chính đưa ta đến giác ngộ, hướng ta tới sự hiểu biết đúng đắn và chân lý cao thượng. Ta không thể đạt được giác ngộ hay thành tựu chỉ qua việc tụng vài bản kinh.
Trong Kinh Pháp Hoa, Phẩm Thảo Dược có câu chuyện về những đứa con được người cha cho uống thuốc để trị bệnh nhưng con không nghe. Tới khi người cha bỏ đi xứ xa và cho người về báo tin rằng cha đã mất rồi, thì những người con vì lo sợ cái chết sẽ đến mới uống thuốc để giải độc. Chúng sinh cũng giống như những đứa con này. Đức Phật cũng chỉ ra việc nương tựa bậc thầy như chân lý, quan trọng nhường nào. Khi ta nhìn xung quanh, ta sẽ thấy rất nhiều người lâm vào cảnh bệnh tật, tàn tật nhưng ta cũng không bao giờ nghĩ rằng một ngày nào đó mình sẽ như vậy. Chúng ta luôn vẽ một tương lai màu hồng. Người có trí không nhìn cuộc đời qua lăng kính màu hồng ấy, mà nhìn vào sự thật của ngày mai – bất cứ thứ kỳ cũng có thể xảy ra, nếu phước hết, dù có muốn làm gì cũng gặp chướng ngại.
Đức Pabongkha Rinpoche dạy rằng: “Nhờ hy sinh đầu, mắt, tay, chân trong ngàn kiếp ta có được kho công đức lớn; nhưng ta cũng sẽ có được công đức như vậy, ít nhọc nhằn hơn, nhờ làm vui lòng bậc thầy.” Mật thừa là con đường phương tiện đưa đến quả vị của Thập địa. Những bậc Kim Cương Sư được trao truyền giáo lý của dòng truyền thừa không gián đoạn và có sự chứng ngộ mới có thể nhìn được ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai. Khi một học trò đến với thầy, Kim Cương Sư có thể nhập định và quán sát được các nghiệp lực đời quá khứ. Qua đó, Ngài sẽ biết cách hóa giải nghiệp lực ấy. Bởi chúng ta mê lầm, ích kỷ, ngã mạn, cống cao, tham lam và chính những thứ này dẫn ta vào các cảnh giới xấu. Kinh Địa Tạng nói: “Một người đeo đá nặng đi trong bùn lầy, gặp một người khác giúp ta gánh hết phần nặng nhọc ấy hoặc gánh đỡ một phần, chỉ cho người đó con đường đi đúng đắn; nhưng nếu ta không tin tưởng thì một lúc nào đó cũng vẫn lại đọa lạc vào con đường xấu đó.” Nếu ta chưa từng nếm vị ngọt của quả Bồ đề, làm sao hiểu được chân lý giải thoát sáng rõ ra sao. Ta như người mù đi trong đêm. Những bậc thầy đã giác ngộ không bao giờ làm hài lòng chúng sinh, không bao giờ nói những lời dễ nghe, mà chỉ nói theo chánh pháp, bởi chúng ta còn là những kẻ còn đang phàm phu, còn vô minh. Ví dụ, một người cúng dường bằng tài vật có được từ sự phi pháp. Nếu một vị thầy có trí sẽ chỉ thẳng rằng đó là một việc không đúng, không theo Bát Chánh Đạo. Phật pháp là thứ cao quý mà vàng bạc, kim cương không mua được; chân lý tối thượng thì vô cùng cao quý chỉ truyền được cho những người thực sự cầu pháp.
Chúng ta đã đọa lạc trong luân hồi sinh tử hơn 2.600 năm, kể từ khi Đức Phật nhập Niết bàn. Chúng ta không chắc rằng trong vô thủy kiếp, ta đã tạo ra vô số ác nghiệp và sẽ phải nhận lãnh những quả báo xấu bao gồm cả cái chết. Pháp lễ trong Mật thừa là một phương tiện vô cùng lợi lạc. Một pháp lễ của Mật thừa chứa đựng tất cả tinh túy. Nhờ Pháp lễ, hành giả có thể tăng trưởng tuổi thọ, tăng trưởng tài bảo, công đức, tịnh hóa nghiệp chướng, giúp cho đời sống trở nên thuận lợi hơn. Trong một pháp lễ, bao gồm rất nhiều mantra, thiền định và quan trọng có sự gia trì từ Kim Cương Sư. Khi một vị Kim Cương Sư sử dụng chuông chày – tâm Ngài hợp nhất của Từ bi và Trí tuệ – vị thầy thể nhập với Đức Kim Cương Trì trong thân tướng con người. Khi ấy, Ngài quán tưởng, triệu thỉnh Ngũ bộ Phật, Bổn tôn chư Daka, Dakini, chư Hộ Pháp, thần thế gian xuất hiện trong pháp lễ ấy. Những gì chúng ta tụng đọc trong pháp lễ bao gồm những lời dạy của Đức Phật về từ bỏ tam độc, phát khởi tâm bồ đề vô thượng vì lợi lạc chúng sinh. Lại nhờ nương vào uy lực thần chú, tạo ra vô lượng công đức cho hành giả. Vì vậy, rất nhiều hành giả sau khi tham dự pháp lễ với nhất tâm hoan hỷ, cuộc sống trở nên thuận lợi, vượt qua chướng ngại – tất nhiên mọi thứ tương ưng với công đức, lòng tịnh tín của người đó. Nếu ta tin tuyệt đối vào Đạo Sư thì công đức ấy sánh ngang bằng mười phương chư Phật; nếu chỉ tin vị thầy gần giống như Phật thì công đức rất ít chỉ như một người đi chùa cầu an; còn nếu xem vị thầy như một phàm phu,“thầy cúng” giúp mình bình an thì chỉ như đi mua được vài ký gạo chỉ đủ ăn trong vài ngày.
Kim Cương Sư là vị truyền thụ các giáo lý giải thoát. Nếu vị thầy không đủ trí tuệ, tri kiến, thành tựu, thì sao có thể nhận được trao truyền những quán đảnh để đi vào các thiền định thâm sâu. Đức Phật có 40 đề mục thiền định. Thiền định là nền tảng giúp cho người tu Thanh Văn thừa khi bước vào giai đoạn niệm quán thân, thọ, tâm, pháp, để thấy rõ bản chất sự vật, hiện tượng trong cuộc sống đều là giả tạm. Nếu mọi thứ là thật có thì sẽ chẳng bao giờ có luân hồi sinh tử. Nếu có cơ hội được cận kề bậc thầy trí tuệ mà vẫn không biết cách tích lũy công đức, chỉ chìm đắm vào dục lạc thế gian, thì cũng sẽ không đạt được lợi lạc gì. Chỉ cần được cận kề bậc thầy, lắng nghe giáo lý từ bậc thầy, chỉ cần hiểu một điều nhỏ nhất trong mười điều thầy nói, đã đủ để ta thoát khỏi luân hồi sinh tử. Như Đức Pabongkha Rinpoche nói: Bạn sẽ được giải thoát, dù cứ nghĩ là không. Bởi việc đạt giác ngộ không tính bằng thời gian tu lâu hay chóng, mà tùy thuộc vào việc tâm hành giả hướng tới bậc thầy hay không? Khi con tu Ngondro, hãy quán chiếu xem ta đã thực hành đúng theo những gì đã được chỉ dạy hay chưa?
Thầy đã phát khởi ra mười bảy lời nguyện mạnh mẽ là minh chứng cho việc thầy từ một hành giả bình thường, nương tựa Đạo sư, tuân theo Chánh Pháp để đạt được các thành tựu, phát ra lời nguyện để làm lợi lạc chúng sinh. Chỉ có chứng ngộ thực sự với tâm thanh tịnh mới có thể phát ra những nguyện cao cả, mạnh mẽ như vậy. Khi một học trò tìm tới thầy nhờ sự giúp đỡ, thầy sẵn sàng giúp đỡ mặc dù biết sẽ phải lãnh chịu thay các khổ báo từ nghiệp lực của học trò. Đó là điều đúng đắn, bởi các con nên nhớ, chúng ta đang thực hành Bồ tát đạo. Một vị Bồ tát khi nhìn thấy chúng sinh chìm trong đau khổ, không có gì hơn ngoài việc chúng ta phải giúp họ giải thoát khỏi sự đau khổ ấy. Khi thực hành Bồ-tát đạo, điều hành giả hướng đến là Thập địa Bồ-tát, hi sinh bản thân mình vì lợi lạc của chúng sinh, vì Phật quả vô thượng mà hành giả phải đạt được. Do vậy, hành giả Mật thừa phải luôn sùng kính Kim Cương Sư như đã phát khởi theo các Mật giới của Đức Văn Thù Sư Lợi đã dạy.
Khi hành giả đã quy y Kim Cương thừa, phải từ bỏ tâm cao ngạo. Hãy nghĩ rằng ta chỉ là người thấp kém đi cầu học pháp như Milarepa cầu pháp từ Marpa, Dromtonpa cầu pháp nơi Atisha đã phải trải qua rất nhiều gian nan. Đối đầu với tâm mình mới quan trọng, thiền định chỉ là việc trốn tránh tâm, thiền quán là việc nhận thức rõ tâm, thấy được bản chất của tâm. Khi con tu hành trong giáo pháp Mật thừa, phải hiểu rõ Kim Cương Sư là cha, mẹ và là người bảo hộ cho ta, ban cho ta thành tựu. Bất kỳ lời chỉ dạy nào từ khai thị của Kim Cương Sư đều ẩn chứa giá trị giác ngộ. Chư Phật, Bồ-tát thông qua bậc Kim Cương Sư khai thị cho chúng sinh bằng nhiều phương tiện. Đó là trí tuệ của thầy, là sự từ mẫn để hành giả chiến thắng ma tâm, trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật. Mật điển của Mật thừa là khẩu truyền tâm yếu, chỉ có thể trao truyền từ thầy đến trò. Mỗi một mật điển được thầy khai thị phải phù hợp với căn cơ của hành giả được nhận. Đó là bất lập văn tự, “lấy tâm ứng tâm” mới chính là sự vi diệu của Mật thừa.
Ngày hôm nay, ta được gặp chánh pháp, được lắng nghe chánh pháp – ấy là vinh dự của chúng ta. Lâu nay ta chưa được tiếp cận với chánh pháp đúng nghĩa, vì vậy cuộc sống ta ít an lạc, ngày vui ngày buồn, tâm tán loạn đau khổ. Người tu Mật thừa nên biết cách đối diện với sự thật: thấy rằng đời sống này là đau khổ, phiền não, trăm ngàn muôn thức khó giãi bày.
Khi tu Mật thừa, để tăng trưởng lòng sùng kính tuyệt đối, hãy nương theo vị Kim Cương Sư của ta, không nên đi tìm bất cứ một vị Kim Cương Sư nào khác. Những pháp chân thật không làm vừa lòng ai, nên khi thọ pháp ta phải mạnh mẽ đối diện với chính bản thân ta. Có học trò rời bỏ Kim Cương Sư khi thầy trực chỉ chân tâm, họ đã mất đi cơ hội tu hành bởi khi đã từ bỏ lời thệ nguyện quy y, đời sau sẽ bị đọa lạc vào địa ngục vô gián, rất khó có cơ hội được tái sinh làm người để tu hành. Khi phát lời thệ nguyện quy y, Đạo Sư, chư Phật, chư Bồ Tát, Hộ Pháp các vị hộ thần đã chứng giám. Vì vậy, khi đã có lòng tịnh tín, thì không một thế lực nào có thể làm hại. Có một câu chuyện về một đứa bé đi chăn trâu với cha. Khi cha đi lấy nước uống thì con trâu chạy vào thành mất. Cha đi tìm nhưng không vào được thành do cổng thành đã đóng. Ở trong thành có hai con quỷ Dạ-xoa. Một trong hai con quỷ có thể nhìn thấy rằng đứa bé này có niệm Phật, Pháp, Tăng nên không làm hại được. Đứa bé nhớ lời cha dạy, niệm Phật, Pháp, Tăng nên những phi nhân, thế lực tà ác không thể làm hại được.
Ngài Cấp Cô Độc có quy định với gia nhân làm việc tại tư trang của mình: mỗi tuần phải giữ Bát quan trai giới (giữ ngũ giới, không hành dâm, không nằm ngồi giường cao tốt, không ăn phi thời, không ca hát múa xướng, trang điểm, không đeo trang sức, tràng hoa). Trong số gia nhân của Ngài Cấp Cô Độc có một ông lão chỉ giữ nửa ngày Bát quan trai giới. Tới tối thì ông mệnh chung, sau đó được làm một vị thọ thần, phước báu vô cùng lớn.
Lại có một bà hoàng hậu sống ở thời Đức Phật, do giữ Bát quan trai giới mà sắc tướng vô cùng xinh đẹp. Vị vua không tin điều ấy, liền thách thức bà hoàng: nếu thỉnh được Đức Phật và cúng chư tăng năm trăm xấp vải mà không lấy từ ngân khố, ông sẽ cúng dường vật thực này cho Phật. Tới ngày Đức Phật đến, bà hoàng lấy trong rương ra năm trăm xấp vải – bà có được nhờ chư thiên thông qua lời cầu nguyện của bà mà giúp thành sự thật.
Khi tu hành, đừng sợ đối diện với sự thật. Ta chỉ nên sợ khi sai mà không có ai chỉ cho ta thấy cái sai hay người dạy ta sai thêm sai. Câu chuyện Đức Phật độ ngài Aṅgulimāla là minh chứng: vì nghe theo lời một vị thầy Bà-la-môn mà giết 1.000 người, tin rằng lấy ngón tay xỏ thành chuỗi đe mới có thể đắc thành chư thiên. Sau khi đã giết 999 người và chuẩn bị giết mẹ mình, Đức Phật quán chiếu được nhân duyên có thể đắc thánh quả nên đã độ ông. Đức Phật nói với ngài rằng: “Dù con có tạo bao nhiêu ác nghiệp, nhưng nếu tâm con sám hối và sửa đổi, con cũng có thể đắc được quả.” Ta thấy rằng, dù họ từng là những kẻ sát nhân ác như vậy nhưng vẫn có thể đắc Thánh quả A-la-hán. Câu chuyện này cho ta thấy những chúng sinh như chúng ta, dù không tạo ác nghiệp như vậy, nếu nương nhờ bậc Kim Cương Sư, ta vẫn có thể đắc quả. Kể cả khi mất đi, trong cảnh giới thân trung ấm bardo, Kim Cương Sư vẫn có thể hóa thân thành các vị Phật, Trì Minh Vương để giúp ta tái sinh vào cảnh giới tịnh độ. Bởi một người bị đọa, cả thầy cùng trò sẽ bị đọa theo. Do vậy, các bậc Kim Cương Sư phải là những bậc chứng ngộ thực sự. Chỉ có ngài mới giúp cho một người thoát khỏi cảnh giới xấu và không để những hành giả khác đọa lạc theo. Bất kỳ ai phạm samaya thì chỉ duy nhất Kim Cương Sư mới có thể cứu giúp hành giả đó.
Mật thừa vi diệu là vậy, có đầy đủ phương tiện để độ thoát chúng sinh. Như Đức Liên Hoa Sanh từng nói: Mật thừa là phương tiện tuyệt hảo. Thánh Tổ Atisha cũng nói: Không có một giáo lý, chân lý nào tuyệt vời hơn Mật thừa. Ngài từng đi từ Ấn Độ tới Indonesia rất gian nan để thỉnh pháp. Giáo lý Kadampa là giáo lý thanh tịnh, không thể phỉ báng. Những người phỉ báng giáo pháp này sẽ gặp nhiều quả báo nặng nề và chướng ngại. Giáo pháp ấy trong như pha lê, sáng như ngọc như ý, sáng như mặt trời, ẩn chứa con đường giác ngộ. Ta vẫn có thể sống cuộc sống bình thường, và nghĩ mình không thể thành Phật quả được. Nhưng đến một ngày chín muồi, ta có thể nhận ra rằng Phật quả, không phải là thần thông, tỏa hào quang, mà chỉ là sự thấy biết chân thật trong trí tuệ tuyệt đối, rõ ràng, từ bỏ những ác kiến sai lầm để đạt được chánh tri kiến.
~His Holiness 17th Kadam Kyabje Dongchen Chotrul Rinpoche~
(Trích bài giảng ngày 20.07.2025)