Tôn ảnh: Diệp Y Phật Mẫu Parnashavari (Loma Gyunma)
“Bạn sẽ tiến tới Phật quả nhanh hơn nhờ những sự chỉ giáo của thầy” (Giải thoát trong lòng tay, Pabongkha Rinpoche). Mỗi tông phái khác có những cách chỉ dạy về thực hành khác nhau, phát triển dựa trên Tín – Nguyện – Hạnh là gốc và nương theo giáo lý của Đức Thế Tôn. Tương tự, trong Mật thừa, để biết được con đường đúng đắn, con phải nương tựa vào một bậc thầy giác ngộ và dựa trên giáo huấn của bậc thầy ấy thay vì chỉ tin vào những gì chỉ dạy trong kinh văn bởi độ chính xác của các bản kinh lưu truyền tới ngày nay có thể không chắc chắn. Người tu Phật cần hiểu rõ rằng giáo pháp nào lấy nền tảng của Bát Chánh Đạo và Tứ Diệu Đế thì giáo pháp ấy sẽ đưa đến giác ngộ.
Đức Pabongkha Rinpoche nhấn mạnh: “Một lợi ích tổng quát của việc nương tựa bậc thầy là bạn sẽ tiến gần hơn tới Phật quả. Trong khi những con đường khác cần phải trải qua nhiều kiếp tu hành mới thành Phật quả, thì nhờ hết mình phụng sự bậc thầy, có người đã thành tựu Phật quả ngay trong một đời. Những Mật điển tối thượng thành tựu điều này rất nhanh, Pháp Du già Đạo sư là huyết mạch của con đường Mật tông. Ta có thể thấy điều này qua cuộc đời của Milarepa”. Bởi vậy, cho dù có tu tập đầy đủ các cấp độ tantra từ Kriya, Charya đến Yoga, Anuttarayoga thì pháp tu nền tảng vẫn là Ngondro. Các bậc Đạo sư vẫn thường duy trì việc tu tập Ngondro cho đến cuối đời vì Ngondro chính là “đạo lộ” đưa đến giải thoát Niết Bàn ngay trong đời này. Nếu hành giả thiếu lòng sùng kính, không nương tựa bậc thầy thì không thể nào đạt được Phật quả ngay trong đời này mà tiếp tục luân hồi trong nhiều đời kiếp.
Khi con là một hành giả Mật thừa thì con cần hiểu rằng những giáo huấn, những chỉ dạy từ kim khẩu của bậc Đạo sư là những điều quý giá hơn trăm ngàn kinh sách. Trong Mật thừa có rất nhiều các Tulku, Rinpoche nhưng để được công nhận là bậc Đạo sư thì lại rất ít. Để trở thành một Đạo sư, vị ấy cần có giáo huấn khẩu truyền từ thầy đến trò, đạt được thành tựu hợp nhất với bậc thầy của vị ấy, thành tựu bốn cấp bậc tantra nói trên cùng các tantra thuộc Phụ Bộ và Mẫu Bộ. Hiểu một cách đơn giản, hành giả Mật thừa cần nương tựa vào Đạo sư của mình. Con chẳng thể thành Phật được nếu không có một con đường để đi. Chúng ta có thể thiền định dựa trên chỉ dẫn trong kinh sách, nhưng chỉ có Đạo sư mới chỉ dạy cho ta cách đi vào các tầng thiền (Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền), cách kiểm soát tâm.
“Thuốc đắng giã tật, sự thật mất lòng”. Pháp chân thật không làm vừa lòng bất kỳ ai, bất kỳ chúng sinh nào trên thế gian này. Không thể nói sai chánh pháp để làm vừa lòng bất kỳ ai – vì như vậy chỉ đọa vào các cảnh giới xấu. Mật thừa khác biệt ở chỗ đánh thẳng vào tâm, bởi vậy lời pháp thường rất khó tiếp nhận. Xưa kia, khi có tin Đức Phật tuyên thuyết Kinh Pháp Hoa có hàng trăm ngàn vị Tăng sĩ tìm đến nghe, nhưng đến lúc khi Đức Phật thuyết pháp thì chỉ còn vài trăm vị ở lại, là những vi Thượng thủ A La Hán. Đức Thế Tôn thấy vậy nói rằng “Những hạt lép đã đi hết rồi, bây giờ chỉ còn lại các hạt chắc.”
Trong Mật thừa, những vị được chứng nhận và tấn phong là Đạo sư là những bậc phải thành tựu tantra Tối Thượng Du Già Mật (Anuttarayoga), đạt được thân huyễn (thân ánh sáng), có chánh thần thông để cứu độ chúng sinh. Đức Atisha có day: Với người có thần thông, thì trong một ngày việc dụng thần thông cứu giúp chúng sinh thì tạo ra vô lượng công đức hơn một người không có thần thông. Khác với những kẻ dùng thần thông với tà tri kiến như Đề-bà-đạt-ba (Devadatta) để xúi giục Vua A Xà Thế giết cha mình, đoạt ngôi hại Phật, thả voi say để mưu sát Đức Phật nhưng không thành. Ngài đã rải tâm từ để cảm hóa con voi Nalagiri đến mức nó thuần phục, quy y ngài. Trong thời kỳ Mạt pháp – khi phàm thánh phật đồng cư ngụ, người bình thường khó có thể phân biệt chánh tà pháp – hành giả dễ chạy theo những pháp vừa ý mình mà cho là chánh pháp, rồi lập tức tin theo.
Bản thân thầy, trước khi được tấn phong là một Kim Cương Sư, thầy cũng là người hết mực tôn kính và nương tựa vào Đạo sư của thầy và đã làm việc này trong rất nhiều kiếp nên mới có thế thành tựu Phật quả như ngày hôm nay. Vì vậy, nếu con muốn đạt thành tựu trong Mật thừa thì chỉ có cách duy nhất là nương tựa nơi Đạo sư – người đại diện cho ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng. Con phải xem Kim Cương Sư chính là Phật, ngài có những giáo lý khẩu truyền khai thị ngộ nhập Phật tri kiến, tùy theo căn cơ của từng chúng sinh – tùy thuận chúng sinh. Khi con chưa chứng ngộ, thì chưa thể thấy rõ mỗi chúng sinh đang gặp vấn đề gì, cần pháp gì để giải quyết vấn đề của họ.
Đức Pabongkha Rinpoche còn nhấn mạnh rằng: “Ngay cả trong truyền thống kinh tạng, người ta cũng nhanh chóng tiến bộ trong con đường tu nếu sự thờ phụng bậc thầy được thực hành trong sự tuyệt hảo”. Thực tế các vị Đạo sư cũng hết mực phụng sự các vị thầy của các ngài thì mới có thể nhận được sự trao truyền giáo lý từ họ. Một vị Đạo sư khi đạt được trạng thái của một Kim Cương Trì tức là đạt quả vị của Ngũ Bộ Phật, có được Diệu Quán Sát Trí – trí tuệ quán sát được thật tánh của các pháp. Ngay cả khi đã đạt thành tựu giác ngộ, thầy vẫn không ngừng thực hành, không khác những hành giả bình thường bởi sự tu tập giống như dòng chảy không ngừng nghỉ và càng tu mới càng thấy giá trị của việc tu tập, gìn giữ giáo pháp trân quý đến mức nào. Chúng ta may mắn vì ngay ở đời này đã gặp được Đạo Sư và điều này đáng quý biết bao nhiêu. Giáo pháp Mật thừa khó nghe, khó chấp nhận nhưng khi đã chấp nhận được tức là hành giả đó có căn cơ rất lớn. Mật thừa đánh thẳng vào tâm, các Kim Cương Sư nổi tiếng ở việc chỉ thẳng vào tâm và các vị cũng không sợ hãi điều gì cả, cho nên “thà cắt đi lưỡi chứ không nên nói sai pháp”, đó là giá trị cao quý của Mật thừa.
Xưa khi khi Đức Phật thuyết pháp, rất nhiều kẻ ngoại đạo không tin vào giáo pháp của ngài và phỉ báng. Nhưng những bậc trí tuệ như Thập Đại Đệ Tử của Đức Phật vẫn luôn tuyệt đối tuân phục ngài, nhiều người trong số họ trước đó đã từng là Bà la môn. Đức Pabongkha Rinpoche cũng chỉ rõ “Nếu gặp được một vị Phật, ta sẽ nghĩ rằng vị Phật ấy hơn thầy mình – đấy là một phản ứng tự nhiên. Nhưng Sadaprarudita thì mặc dù đã thấy vô số Phật vẫn không thỏa mãn, ông muốn tìm một bậc thầy. Đây là điểm trọng yếu. Nếu không gặp được một bậc thầy mà ta có nhân duyên suốt cả trong đời sau của mình, là ta đã lỡ mất điều tốt lành nhất”. Thật vậy, hành giả không gặp được thầy thì dù có tu trăm ngàn bổn tôn cũng không thành tựu. Giáo Pháp của Đức Phật tuyệt hảo ở chỗ dám nói lên sự thật, cũng vì như vậy nên chỉ có bậc thầy với tâm từ bi mới có thể nói ra chân lý cao thượng của sự thật ấy giống như ánh mặt trời luôn tỏa rạng. Những ai dám nói ra giáo pháp chân thật mới chính là sa môn đệ tử Phật.
Ngài Pabongkha Rinpoche giảng tiếp: “Nếu cúng dường lễ bái để cầu xin Đế Thích một viên ngọc ước, ta sẽ được thỏa mãn. Thế nhưng Sadaprarudita thì lại cắt thịt mình cho chảy máu để cầu được gặp một bậc thầy. Điều này mang lại năng lực lớn nhất cho ông xây dựng hai thứ tích lũy (phước, trí); và nhờ thế ông đã đạt định chứng gọi là “dòng pháp liên tục” khi có được linh kiến về chư Phật; quả thế, ông đã đạt đến một địa vị cao trong Đại thừa về tích lũy công đức. Sau đó ông gặp bậc thầy Dharmodgata dạy pháp cho ông và ông chứng ngay đệ bát địa Bồ tát sau khi chứng vô sanh pháp nhẫn thuộc đạo lộ chuẩn bị”. Thầy cũng đã từng dùng máu của mình để cúng dường, viết một bản kinh trường thọ dâng lên các vị Đạo sư tôn quý của Dòng Kadampa cổ để duy trì dòng pháp tương tục. Điều này trong kinh Hoa Nghiêm cũng đã ghi rất rõ ràng “Chỉ có Bồ tát mới có thể dùng máu của mình để tán thán Phật, tán thán Pháp, tán thán Tăng”. Trong Mật điển tối thượng cũng dạy rằng: “Những ai dùng máu của mình để tán thán bậc thầy sẽ nhận được sự gia trì liên tục của Dòng truyền thừa không bao giờ dừng dứt, đạt được quả vị Thập địa trong đời này”. Máu của các Bậc giác ngộ khi viết ra vẫn giữ được màu đỏ tươi và không bao giờ đổi màu. Thân thể của các vị có dòng pháp tương tục, có giáo huấn khẩu truyền, có sự gia trì và thành tựu sẽ luôn tỏa ra mùi hương (mùi hương chiên đàn, mùi ưu đàm hương, cao nhất là mùi trầm hương) chứng tỏ sự thanh tịnh từ lỗ chân lông, trong từng giọt máu của các vị bởi nó chứa đựng tinh túy của giáo pháp.
Vậy nên trong đời này, khi hành giả đã gặp một bậc thầy đã không ngần ngại mà khai thị những sự thật của chánh pháp để hành giả giác ngộ, thì đó mới chính là các vị thầy kế thừa giáo pháp của Đức Như Lai. “Sadaprarudita chứng đạo nhanh chóng nhờ sự tận tụy vô song đối với bậc thầy, trong khi những Bồ tát khác phải trải qua một đại kiếp tích lũy công đức trong bảy địa vị đầu của mười địa vị Bồ tát”. Để đạt được Thập địa Bồ tát phải trải qua vô số công đức cao thượng, để thoát được khỏi tam đồ khổ. Thế gian này vốn là giả huyễn, là tập hợp của khổ não, vô thường, nghiệp lực. Khi hành giả tu tập tức là học cách làm chủ nghiệp lực ta đã tạo ra, khi ấy mới cảm nhận chánh pháp là vi diệu.
Sự an lạc thực sự sanh khởi trong tâm của một người thấy được chân lý ấy cao thượng tuyệt hảo không gì sánh bằng. “Nhờ lòng từ bi của thầy, ta có thể đạt được trạng thái đại lạc hoặc nhờ sự thương xót của thầy mà cảnh giới đại lạc được chứng ngộ”. Điều này có nghĩa là nếu hành giả biết thờ phụng bậc thầy đúng cách, với lòng từ bi của thầy, sự gia trì từ thầy sẽ giúp hành giả đạt được cảnh giới an lạc trong thời gian ngắn nhất. Đức Pabongkha Rinpoche kể câu chuyện về cuộc du hành của Đại thành tựu giả Vô trước (Asanga) tới cõi trời Đâu suất. Ngài ở đó trong một buổi sáng để thọ pháp với Đức Di Lặc và khi trở về Trái đất mới biết đã 50 năm trôi qua rồi. Vậy mới thấy rằng đời người ngắn ngủi chỉ như một khoảnh khắc sinh tử so với thời gian bị trôi lăn trong luân hồi này.
“Nếu không phụng sự bậc thầy đúng cách, bạn sẽ không thể đạt được thực chứng nào dù là nhỏ nhất trong các giai đoạn đạo lộ dù có tu tập các mật điển tối thượng. Nếu thờ thầy đúng cách, không bao lâu bạn sẽ đạt được trạng thái hợp nhất mà thông thường phải trải qua nhiều kiếp. Trong “Lamrim – Tinh túy cam lồ” có nói: sự hợp nhất rất khó đạt vì phải trải qua vô số kiếp, bởi thế sự thành Phật mau hay lâu, cốt yếu là do con có phụng sự bậc thầy một cách tận tụy hay không. Bạn sẽ tiến gần hơn tới Phật quả nếu có nương tựa bậc thầy nghĩa là thực hành những chỉ giáo của bậc thầy. Và bạn có thể sẽ thành Phật sớm hơn nếu nương tựa một bậc thầy có thể dạy cho bạn giáo lý viên mãn (cả ba phạm vi) hơn là một bậc thầy chỉ có thể dạy Phạm vi nhỏ. Nếu môn đệ là pháp khí thích hợp (nghĩa là có thể chịu đựng những khổ hạnh, khó khăn) mà gặp được bậc thầy có thể giảng dạy viên giáo thì tất cả khó khăn tan biến. Điều này dường như chính chư Phật đã an bài như vậy. Padampa Sangye nói:
“Bạn có thể đến đích theo ý muốn
Nếu được thầy mang đi –
Bởi thế, hỡi dân chúng Dingri,
Hãy cung kính tôn trọng thầy.
Đây là cái giá phải trả cho cuộc hành trình.”
Trong đời sống thế tục ngày nay, chúng ta trải qua vô số kiếp luân hồi sinh tử trong vô số đời. Nhưng khi đã quy y nương tựa Kim Cương Sư, tức là hành giả nhận được những giáo huấn khẩu truyền, những sự thật mà chỉ có chư Phật mới có thể chỉ ra được cho ta thấy “tâm này là Phật”. Khi nói về Phật thì dễ nhưng thấy Phật thật khó, nói tu hành thì dễ nhưng để giữ vững tâm trong tu hành thì rất khó. Chúng ta tôn kính tôn tượng Phật trên bàn thờ nhưng khi thờ phụng một bậc Kim Cương Sư thì lại khó, điều này xảy ra bởi lòng sùng kính Kim Cương Sư trong tâm hành giả chưa có. Một khi thiếu đi sự sùng kính đối với bậc thầy thì không bao giờ nhận được sự gia trì từ thầy, dù trong cuộc sống, công việc, hay khi đối mặt với gian nan khó khăn.
Khi đã quy y Mật thừa thì những giáo huấn và những gì được chỉ dẫn là từ thành tựu, tri kiến của bậc thầy ban cho (hãy ghi nhớ “Chín hạnh sùng kính Đạo sư”). Khi hành giả đã bước chân vào Mật thừa, quy phục một bậc thầy đã giác ngộ, thì vị thầy sẽ chỉ dẫn cho hành giả những sự thật đôi khi không phải như những gì ta thường thấy bên ngoài. Chẳng hạn, mặc dù thế gian nói việc này là tốt nhưng thực tế thầy sẽ chỉ cho ta thấy những việc đó là tà pháp, nếu y theo sẽ chỉ có thể đọa vào các ác đạo – địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-la. Một khi đã nhận được sự gia trì thì hành giả sẽ được chư thiên, hộ pháp chỉ đường dẫn lối để nhận được những giáo lý thực sự đưa đến sự giác ngộ trong đời này.
Những giáo lý thuộc về chân lý cao thượng, như những gì xưa kia Đức Phật đã làm, thì không bao giờ vì sự hài lòng của cá nhân nào mà đó là sự khai thị của chân lý, con đường thánh pháp, giác ngộ. Hãy mỗi ngày thực hành lễ bái, cúng dường (nước, đèn) trên bàn thờ của hành giả Mật thừa. Điều căn bản nữa mà ít nhất mỗi hành giả phải có là một bức tôn ảnh của Kim Cương Sư. Những hành giả Mật thừa phải nhớ rằng pháp chân thật là khó tin, khó nhận, nhưng nếu đã tin nhận được thì phải cố gắng dốc tâm tu hành và đừng bỏ lỡ cơ hội giác ngộ thành Phật chỉ trong một đời.
Các vị Kim Cương Sư sẽ dùng vô số phương tiện để giáo hóa chúng sinh, làm đúng theo chánh pháp. Câu chuyện về Aṅgulimāla là một vị thánh Tăng nổi tiếng trong kinh điển Phật giáo, là đệ tử sau này được Đức Phật hóa độ. Khi Aṅgulimāla bị tai tiếng do đã sát hại quá nhiều người trước khi gặp Đức Phật, Ngài đã nói với Aṅgulimāla rằng: “Khi tâm con thực sự buông bỏ tất cả cái thấy bên ngoài là giả, chấp nhận tội nghiệp mình đã gây tạo, thay đổi ác nghiệp, thực hành Bát Chánh Đạo và tu tập đúng chánh pháp, con sẽ chứng đắc đạo quả như mọi người.” Và điều này đã thành hiện thực.
Trong đời này, dù không thể gặp Phật nhưng chúng ta may mắn gặp được Kim Cương Sư. Có thể nói ai trong chúng sinh khi còn vô minh và chưa giác ngộ thì ít nhiều vẫn còn bị tham, sân, si, hỉ, nộ chi phối. Cho nên cũng chẳng trách khi mỗi hành giả mắc lỗi, sự nhắc nhở là để hành giả quay về với chánh pháp, an vui và nhận được giáo lý, tu tập giác ngộ thành tựu ngay đời này. Nếu hành giả đủ nhân duyên nhận giáo huấn khẩu truyền, cũng có thể thành Phật chỉ trong một sát na Giáo pháp nào chứa đựng Bát Chánh Đạo, có đệ nhất sa môn, đệ nhị sa môn, đệ tam sa môn, đệ tứ sa môn thì giáo pháp ấy là giáo pháp của Chánh Biến Tri.
Giáo pháp chân thật thì như mặt trời tỏa rạng, không bao giờ dừng dứt. Giáo pháp Dòng Kadampa cổ chứa đựng tinh túy đưa tới giải thoát như vậy. Không có ai đạt thành tựu mà không qua Kim Cương Sư, các bậc Đại thành tựu giả như Long Thọ, Vô Trước cũng đã khẳng định điều này. Một khi tâm thức hành giả có sự hiện diện của bậc Kim Cương Sư, có sự sùng kính giáo pháp, thực hành đúng sự chỉ dạy từ thầy, thì dù ở nơi nào Ngài cũng sẽ luôn gia trì, bảo hộ cho mỗi hành giả, cho những ước nguyện của hành giả viên mãn từ sự phát khởi Bồ-đề tâm đúng chánh pháp, “như pháp như lý.”
~His Holiness 17th Kadam Kyabje Dongchen Chotrul Rinpoche~
(Trích bài giảng ngày 13.07.2025)
